Nét độc đáo nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là giọng điệu mỉa mai, trào phúng. Có thể nói, trào phúng là nghệ thuật độc đáo trong thơ Hồ Xuân Hương. Giọng điệu này được thể hiện khi nữ sĩ phê phán, đả kích giai cấp phong kiến thống trị.
Từ trước tới nay, thơ Hồ Xuân Hương đã được nhiều Nhà xuất bản công bố, mà trong đó, Nhà xuất bản Văn học cũng có dự phần. -1840). Đồng thời, tác giả công trình cũng là người đầu tiên phát hiện được một số bài thơ trữ tình, trào phúng có giá trị. Trong
THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƯƠNG THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƯƠNG. Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ GIA VÕ
Bên cạnh mảng thơ trào phúng châm biếm, Hồ Xuân Hương còn có một mảng thơ trữ tình thiên về bộc lộ cảm xúc. Xét về số lượng mảng thơ trữ tình lại ít hơn, nhưng mỗi bài thơ trữ tình lại mang một tâm sự khiến cho người đọc không khỏi xúc động.
Thơ của Hồ Xuân Hương đậm chất dân gian, vừa trào phúng vừa trữ tình. Các tác phẩm của bà thường cất lên tiếng nói cảm thương cho thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời khẳng định vẻ đẹp và khát vọng sống của họ.
Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ trào phúng khi bà cất tiếng cười khinh bỉ lên các tầng lớp thống trị bấy giờ. Bọn vua chúa quyền lực suy cho cùng thì cũng chỉ là những kẻ háo sắc, thích trêu hoa ghẹo nguyệt và xem phụ nữ là trò tiêu khiển của mình.
HCxRH. Cuộc đời và sự nghiệp Hồ Xuân HươngNhà thơ Hồ Xuân HươngTiểu sử nhà thơ Hồ Xuân HươngSự nghiệp văn chương của Hồ Xuân HươngPhong cách văn chương của Hồ Xuân HươngGhi danh và tưởng nhớ nữ thi sĩ Hồ Xuân HươngMột số tác phẩm tiêu biểu của Hồ Xuân HươngTác phẩm Tự tình 2Tác phẩm Bánh Trôi NướcVnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh cùng các bạn bài viết về sự nghiệp và cuộc đời của nhà thơ Hồ Xuân Hương để tìm hiểu và tham khảo giúp các em học sinh lớp 11 hiểu rõ và cuộc đời bà và các tác phẩm nổi tiếng để học tốt môn Ngữ sử nhà thơ Hồ Xuân HươngNhà thơ Hồ Xuân Hương sinh ngày ?-?-1772 tại Tỉnh Nghệ An, nước Việt Nam. Bà sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam. Bà sinh thuộc cung chưa rõ, cầm tinh con giáp rồng Nhâm Thìn 1772. Hồ Xuân Hương xếp hạng nổi tiếng thứ 1607 trên thế giới và thứ 2 trong danh sách Nhà thơ nổi các tài liệu lưu truyền, Hồ Xuân Hương chưa rõ năm sinh năm mất quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nhưng sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long. Nữ sĩ có một ngôi nhà riêng ở gần Hồ Tây Hà Nội bây giờ lấy tên là Cổ Nguyệt đời Hồ Xuân Hương lận đận, nhiều nỗi éo le ngang trái hai lần lấy chồng nhưng đề là lẽ, để đến cuối cùng vẫn sống một mình, cô Xuân Hương đi nhiều nơi và thân thiết với nhiều danh sĩ, có người nổi tiếng như Nguyễn Du…Sự nghiệp văn chương của Hồ Xuân HươngHồ Xuân Hương từng được mệnh danh là “Bà Chúa Thơ Nôm”. Sáng tác của Hồ Xuân Hương gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Theo giới nghiên cứu, hiện có khoảng trên dưới 40 bài thơ Nôm tương truyền là của Hồ Xuân Hương. Nổi bật trong sáng tác thơ Nôm Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ. Nữ thi sĩ còn có tập thơ Lưu hương kí phát hiện năm 1964 gồm 24 bài chữ Hán và 26 bài chữ lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là hiện tượng rất độc đáo nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng, đến ngôn ngữ, hình phẩm của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là những bài thơ viết bằng chữ nôm, theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật tám câu bảy chữ và thất ngôn tứ tuyệt bốn câu bảy chữ. Một số tác phẩm thơ nôm của bà Bà Lang Khóc Chồng, Bạch Đằng Giang Tạm Biệt, Bài Ca Theo Điệu Xuân Đình Lan, Bánh Trôi Nước, Bọn Đồ Dốt, Cái Quạt, Cảnh Làm Lẽ, Cái Quạt Giấy 1, Cái Quạt Giấy 2... Thơ của Hồ Xuân Hương vừa thanh vừa tục, chủ yếu viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam, về thói hư tật xấu của nhà sư, thầy đồ thời phong kiến. Bà cũng có một số bài thơ viết bằng chữ Hán. Đến nay, tác phẩm thơ chữ Hán của bà chỉ còn lại rất ít bài, trong đó có 5 bài thơ đã ông Trần văn Giáp công bố năm 1962 gồm Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Độ Hoa Phong, Trạo ca thanh, Thuỷ vân cách văn chương của Hồ Xuân HươngVăn chương của Hồ Xuân Hương chủ yếu nêu lên thái độ, tâm tư tình cảm của mình nói riêng và người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung. Những câu thơ mang đậm cá tính mạnh mẽ của một người phụ nữ với trái tim khao khát yêu thương, bà dám đứng lên nói những điều người khác không dám nói, dám bộc lộ những điều người khác không dám bộc lộ. Chính văn chương của bà như một cánh cửa mở ra, đưa độc giả của nhiều thế hệ đến gần hơn, am hiểu hơn về cuộc sống cũng như những khát khao của người phụ nữ lúc bấy tài năng của mình, Hồ Xuân Hương đã viết nên nhiều tác phẩm thành công vang dội, với nghệ thuật đặc sắc, cách diễn tả tâm tư tình cảm bộc trực, ta thêm thương cảm, đau xót trước những người phụ nữ tài hoa, xinh đẹp lúc bấy giờ nhưng họ lại không có được hạnh phúc, êm ấm mà đáng lẽ họ được nhận vật trong thơ văn của Hồ Xuân Hương thường là vua chúa, quan lại đến những thư sinh nghiên bút, những kẻ tự xưng là hiền nhân quân tử nhưng làm việc lén lút cũng được Hồ Xuân Hương phơi bày bằng ngòi bút trào phúng độc đáo. Bên cạnh đó, thơ văn của Hồ Xuân hương còn thể hiện ước mơ, khát khao hạnh phúc lứa đôi, muốn có một cuộc sống trần tục thiên về mặt bản năng của chính những nét đặc sắc trên, ta có thể khẳng định, nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là một trong những tác giả hiếm hoi của nền văn học trung đại Việt Nam vừa thể hiện cá tính mạnh mẽ lại có nhiều tác phẩm nổi tiếng, gây ấn tượng, tiếng vang đến tận ngày nay. Chính từ những yếu tố trên, Hồ Xuân Hương quả thực rất xứng đáng với danh xưng Bà Chúa thơ danh và tưởng nhớ nữ thi sĩ Hồ Xuân HươngHầu hết các thành phố của Việt Nam đều có con phố chính mang tên Bà. Tên bà còn được đặt tên cho một hồ nước ở trung tâm Đà phẩm "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương được lựa chọn dạy trong môn Ngữ văn của các trường Trung học cơ sở tại Việt phẩm "Tự tình II" được lựa chọn để dạy trong chương trình Ngữ văn 11 tại Việt số tác phẩm của Bà được dịch sang tiếng Anh trong cuốn Tinh hoa mùa xuân của John Balaban Copper Canyon Press, 2000, ISBN 1 148 9.Một số tác phẩm tiêu biểu của Hồ Xuân HươngTác phẩm Tự tình 2Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Tự tình 2Hồ Xuân Hương là một trong số ít những nữ thi sĩ tài năng của nền văn học Việt Nam. Bà đã để lại cho đời nhiều tác phẩm nổi tiếng, một trong số đó chúng ta không thể không nhắc đến bài thơ Tự tình 2. Bài thơ đã khắc họa tâm trạng, cảm xúc, thái độ của bà trước cảnh tình duyên hẩm hiu của mình. Thời gian được Hồ Xuân Hương dùng để miêu tả, khắc họa tâm trạng của mình chính là vào đêm khuya, vắng vẻ, tĩnh lặng, khi mà trong không gian chỉ có tiếng trống dồn canh vang lên trong đêm tĩnh mịch, khi mà nữ thi sĩ lẻ loi, đơn chiếc một mình. Thời gian vẫn đang chảy trôi, còn người phụ nữ thì lại chìm đắm trong một cảm giác xót xa, buồn tủi với nỗi cô đơn, lẻ bóng pha chút cay đắng của người phụ nữ lẻ loi trong chính tình cảm của mình với một trái tim khao khát yêu thương. Trong nỗi buồn, nỗi cô đơn ấy người phụ nữ đã tìm đến chén rượu để giải sầu nhưng rượu không những không làm cho bà say mà còn khiến cho bà thêm tỉnh táo hơn, sự bất hạnh của cuộc đời lại hiện ra rõ nét hơn khiến cho người con gái ấy thêm giằng xé, đau đớn hơn. Hồ Xuân Hương đã khéo léo mượn hình ảnh ánh trăng để nói về chuyện tình cảm còn dang dở, chưa được trọn vẹn của mình. Ai cũng mong muốn cuộc sống của mình được trọn vẹn, tròn đầy như ánh trăng, nhưng ánh trăng hiện hữu trước mắt nữ thi sĩ lại là vầng trăng khuyết, cũng giống như bà đang thiếu đi rất nhiều phần sức sống trong tâm hồn mình. Người con gái ấy chơi vơi giữa cuộc đời, giữa thời gian trôi chảy và không gian rộng lớn. Những sinh vật tưởng như nhỏ nhoi, yếu đuối như rêu thành những thứ đầy sức sống, vươn lên đầy thách thức với đời. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá cỏ cây, cũng là sự phẫn uất của tâm trạng nữ thi sĩ. Trong bối cảnh cô đơn của tác giả, sự tuần hoàn, trôi chảy này dường như thêm trở nên vô nghĩa. “Xuân” ở đây cũng chính là tuổi trẻ của nữ thi sĩ đang trôi đi lững lờ, khao khát tình yêu nhưng không có được tình yêu. Mối tình duyên nhỏ bé “tí con con” của riêng mình nhưng phải san sẻ với người khác khiến cho mảnh tình ấy càng thêm nhỏ bé chẳng còn đáng bao nhiêu để sưởi ấm trái tim thi sĩ. Điều ấy đối với một người bình thường đã là ít ỏi lắm rồi thì với một người bản lĩnh như Hồ Xuân Hương lại càng khó chấp nhận. Bài thơ đã khép lại nhưng cảm xúc cùng cá tính của Hồ Xuân Hương vẫn còn vang vọng trong tâm khảm mỗi độc giả và tạo nên những giá trị riêng biệt cho Bà chúa thơ bài Tự tìnhSoạn văn 11 bài Tự tình Bài IIPhân tích bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân HươngPhân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của Tự tình 2 Hồ Xuân HươngDàn ý phân tích hình tượng người phụ nữ trong bài thơ Tự tình 2Phân tích hình tượng người phụ nữ trong bài thơ Tự tình 2-Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Hồ Xuân Hương. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Soạn văn 11...Chúc các em học tập sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Lê Hữu TrácTiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đặng Huy TrứTiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của danh nhân Cao Bá Quát
A. Nguyên nhân xuất hiện hiện tượng trào phúng Hồ Xuân Hoàn cảnh thời đại3. Cái tôi Hồ Xuân Hương B. Những đối tượng trào phúng Hồ Xuân HươngC. Ngôn ngữ trào phúng Hồ Xuân Hương. Hiện tượng trào phúng Hồ Xuân Hương A. Nguyên nhân xuất hiện hiện tượng trào phúng Hồ Xuân Hương. I. Hoàn cảnh thời đại 1. Sự sụp đổ của xã hội phong kiến làm nảy sinh những “quái thai” của xã hội, trở thành đối tượng của bút pháp trào phúng. – Tố Hữu đã từng nhận xét “Cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi tới của văn chương”, văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống, hiện thực cuộc sống chính là nguồn chất liệu dồi dào làm nên nội dung tư tưởng cho tác phẩm. Do vậy, các hiện tượng văn học, dù muốn hay không cũng đều chịu sự tác động của thời đại. – Bối cảnh lịch sử Việt Nam thế XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, với sự suy tàn của giai cấp thống trị đã làm nảy sinh trong xã hội những kiểu người lố bịch, xấu xa, giả dối, đã chà đạp lên các giá trị truyền thống. Chính những mẫu người này đã trở thành đối đả kích của bút pháp trào phúng, đặc biệt là bút pháp trào phúng của Hồ Xuân Hương. – Thế kỉ XVIII – XIX là giai đoạn khủng hoảng sâu sắc và dữ dội của những mâu thuẫn chất chưa từ trong lòng xã hội phong kiến Việt Nam. – Khởi đầu là những ông vua “Khoanh tay rũ áo” như Lê Dụ Tông, Lê Thuần Tông, Lê Ý Tông, Lê Hiển Tông, những ông chúa ăn chơi hưởng lạc như chúa Trịnh Cương, Trịnh Giang, Trịnh Sâm. – Chế độ phong kiến phát triển đến đỉnh cao nhất dưới triều Lê Thánh Tông XV thì dần dần đi vào giai đoạn khủng hoảng, suy tháoi. Nội chiến phong kiến Lê – Mạc; Trịnh – Nguyễn phá hoại nguyên trọng sự thống nhất đất nước. – Thế kỉ XVIII nọi chiến không còn, nhưng thỉnh thoảng có một vài mâu thuẫn đáng kể giữa Lê, Trịnh, hoặc ngay nội bộ họ Trịnh cũng có những lục đục tranh quyền đoạt vị. Đàng Trong nạn quyền thần Trương Phúc Loan cũng gây chém giết đổ máu không ít .Đất nước không nơi đâu yên ổn. – 1789, phong trào Tây Sơn – Nguyễn Huệ nổ ra với sức mạnh chưa từng thấy đã đạp tan tập đoàn vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, nhà Nguyễn ở Đàng Trong thống nhất đất nước, rồi sau đó tiếp tục đánh đuổi quân Xiêm, quân Thanh. – 1802, nhà Nguyễn dựa vào thế lực bọn địa chủ và sự giúp sức của nước ngoài lật đổ triều Tây Sơn còn non yếu, dựng nên một chính quyền cực kì phản động so với nhà Lê trước đó. * Những biểu hiện của sự khủng hoảng + Lĩnh vực chính trị ngoại giao giai cấp phong kiến càng trở nên phản động .Lê Chiêu Thống đang tâm rước giặc ngoại xâm về giày xéo quê hương đất nước. + Lĩnh vực giáo dục, thi cử tệ hại. Có thể dùng tiền mà mua chức vị “cứ tứ phẩm trở xuống, ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc. Còn những người chân trắng mà nộp 2800 quan thì được bổ tri phủ, 1800 quan thì được bổ tri huyện” Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim + Chính sách thi cử đã làm cho xã hội trở nên nhiễu loạn. Đó là một xã hội mà người có tiền là có quyền cai trị, đạo đức và tài năng nghiễm nhiên bị xem thường ,mọi mặt trong đời sống xã hội đều suy thoái trầm trọng, quan lại xu nịnh, tàn bạo, trở thành tai họa cho nhân dân. + Các nhà cầm quyền phong kiến chỉ biết tranh giành quyền lợi và lao vào cuộc sống hưởng thụ. Kinh tế kiệt quệ, nông nghiệp không phát triển là hậu quả của những cuộc phân tranh và vì thế nạn đói tràn lan. Người dân phải gánh chịu hậu quả ghê gớm của gần mọt thế kỉ chiến tranh, rồi lại còn phải oằn lưng trước gánh nặng sưu thuế cho bạn quan tham ô lại ,đã đau thương vất vả lại trăm nghìn đau thương vất vả hơn nữa. 2. Sự biến chuyển hệ tư tưởng phong kiến và sự xuất hiện của tầng lớp thị dân đánh dấu sự xuất hiện mãnh mẽ cái tôi cá nhân trong văn học. Thế kỉ XVII, do sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa giản đơn và do mở rộng việc buôn bán với các thương nhân phương Tây, Trung Quốc và nhật Bản, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp mà sự lưu thông trao đổi hàng hóa đã được tăng cường và tiền tệ đã bắt đầu có vai trò quan trọng trong đời sống .Xuất hiện tầng lớp mới tầng lớp thương nhân, thợ thủ công… Sinh hoạt mua bán đã li khai quan hệ sản xuất phong kiến. Cuộc sống của tầng lớp này là đi đây đi đó tiếp xúc nhiều kể cả với người ngoại quốc nên tư tưởng của họ tương đối tự do phóng túng hơn những ng khác . Họ bắt đầu thấy lễ giáo phong kiến là lạc hậu, Nho giáo phong kiến là trái tự nhiên, là kiềm kẹp, bất công với con người. Sự có mặt của tầng lớp thự dân cũng như sự phát triển của đô thị phong kiến thời kì này là mầm mống của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, và cũng là mọt trong số những nhân tố trực tiếp tác động đến xu hướng chống phong kiến đòi quyền sống, đòi quyền tự do cá nhân và quyền thể hiện bản ngã, khẳng định cá tính của con người xã hội lâu nay bị đè nén, bức bối nặng nề . Đây chính lànhân tố góp phần làm thay đổi ý thức, tư tưởng xã hội. Sự thay đổi ý thức, tư tưởng xã hội thể hiện ở sự phá sản chưa từng thấy của hệ ý thức phong kiến Nho giáo Bao nhiêu nguyên tắc đều bị vi phạm trắng trợn trước hết từ trong cung vua phủ chúa, nơi ngự trị những khuôn vàng thước ngọc của chính quyền phong kiến “tam cương, ngũ thường” của Nho giáo bị suy sụp một cách thảm hại tôi giết vua, con hại cha, tớ phản thầy, anh em giết lại nhau vì ngôi báu, tước vị… Sự khủng hoảng về lí tưởng của tầng lớp nho sĩ phong kiến hầu hết các nho sĩ quý tộc có tài năng, đạo đức chân chính đều mang một tâm trạng bế tắc, cho thấy một sự khủng hoảng về lí tưởng Nguyễn Du, Cao Bá Quát… Thời kì này bắt đầu thấy bóng dáng cái tôi của cá tính trong tư cách ngang tàng, phóng túng Phạm Thái, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ… Tóm lại, sự khủng hoảng ý thức, cộng với sự xuất hiện của tầng lớp thị dân đã tạo điều kiện thức tỉnh cái tôi cá nhân khá mạnh mẽ. Sự thức tỉnh cái tôi cá nhân, cùng với việc nhận thức được giá trị bản thân, khao khát đòi hỏi sự tự do, đã nhận ra được bản chất kìm kẹp con người của hệ tư tưởng phong kiến, đồng thời cảm thấy khó chịu, bất mãn trước những loại người xấu xa, đồi bại – những sản phẩn của mọt xã hội đang trên đà sụp đổ. Đó chính là cơ sở cho sự phát triển mạnh mẽ của bút pháp trào phúng vào thời kì này. 3. Cái tôi Hồ Xuân Hương Bên cạnh nguyên nhân khách quan là bối cảnh xã hội, thì hiện tượng trào phúng của Hồ Xuân Hương còn xuất phát từ chính bản thân tính cách của nữ sĩ này. Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ khát khao sống, là một con người tài hoa, học rộng biết nhiều nhưng cuộc đời có lắm bi kịch. Trước cảnh xã hội hỗn loạn với nhiều biến tướng, con người ấy làm sao có thể nhắm mắt làm ngơ, làm sao có thể để yên cho những điều sai trái cứ mặc nhiên hoành hành. Cái tôi khao khát sống mãnh liệt tài hoa của Hồ Xuân Hương, chính là nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự xuất hiện của hiện tượng trào phúng Hồ Xuân Hương. Với bà, thơ trào phúng, trước hết là sự giải tỏa nỗi lòng, sau đó còn là một thứ vũ khí để đấu tranh với các thói hư tật xấu, là tấm khiên để bảo vệ những người phụ nữ khác trong xã hội. Cái tôi Hồ Xuân Hương trong thơ biểu hiện cũng rất đa dạng Cái tôi ấy khẳng định mình ở ngôi thứ nhất, bộc lộ thái độ riêng và cách ứng xử của bản thân “Này, này chị bảo cho mà biết” Trách Chiêu Hổ “Thiếp bén duyên chàng có thể thôi” Khóc Tổng Cóc “Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?” Đề đền Sầm Nghi Đống Hiện tượng xưng tên là một hiện tượng khá lạ và độc đáo trong thi pháp trung đại, tách khỏi cái phi ngã của thi pháp để khẳng định cái tôi cá nhân “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi” Mời trầu “Thân này” cũng được sử dụng nhiều “Tài tử văn nhân ai đó tá? Thân này đâu đã chịu già tom!” “Thân này ví biến dường này nhỉ Thà trước thôi đành ở vậy xong” Khi bà hóa thân vào tình cảnh của người khác, xưng tôi nhưng là nói hộ tâm trạng của người khác “Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa Mảnh tình một khối thiếp xin mang” Không chồng mà chửa “Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo Dau cầu thiếp biết trao ai nhẽ…” Bỡn bà lang khóc chồng Khi bà hóa thân vào sự vật thì cái tôi cũng hiện lên với những đặc tính, tính chất của sự vật “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” Bánh trôi nước “Thân em như quả mít trên cây” Quả mít “Quân tử có thương thì bóc yếm Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi” Ốc nhồi Nhìn chung, cái tôi Hồ Xuân Hương biểu hiện trong thơ có những đặc điểm chung như sau Thứ nhất, Dễ đồng cảm với những đối tượng tầm thường, nhỏ mọn như loài ốc, quả mít, bánh trôi nước, cái quạt, đồng tiền hẻm . Ở đây sự đồng cảm có hai mặt, vừa bộc lộ nỗi buồn thân phận nhỏ bé, bi kịch, những khao khát chưa được thỏa nguyện… nhưng từ đó lại làm bật lên “phép thắng lợi tinh thần” ngoa dụ sức mạnh tiềm ẩn và phẩm giá của các sự vật được miêu tả, cũng như từ đó làm bật lên phẩm giá của con người. Thứ hai, Dễ chạnh lòng với những cảnh ngộ trớ trêu, không như ý, thậm chí đắng cay, chua chát Tâm trạng đau thương trong ba bài Tự tình, khát khao hạnh phúc trong Mời trầu, thân phận hẩm hiu của người phụ nữ Làm lẽ, Không chồng mà chửa, cảnh ngộ của những đàn bà góa bụa… Có sự chú ý đặc biệt sắc sảo đến những “mặt người dị dạng” của xã hội lũ quan lại, sư hổ mang lũ học trò dốt, những kẻ giả dối, tàn nhẫn… Vịnh cái quạt, Thiếu nữ ngủ ngày, Mắng học trò dốt – I, II… B. Những đối tượng trào phúng Hồ Xuân Hương Xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX đã đánh dấu sự mục ruỗng của xã hội phong kiến từ trong ra ngoài, kéo theo đó là sự xuất hiện của những “quái thai xã hội” – những kiểu người dị dạng, giả dối, đạo đức giả, chà đạp lên những giá trị truyền thống tốt đẹp. Những kiểu người này chính là đối tượng đả kích chính của bút pháp châm biếm. Bằng cái nhìn sắc xảo bao quát cuộc sống, ngòi bút châm biếm Hồ Xuân Hương trở nên giàu sức chiến đấu khi đã vạch trần, tố cáo, đả kích đủ mọi tầng lớp tiêu cực trong xã hội. Ngòi bút ấy hướng đến trước hết là giai cấp thống trị, cụ thể là bọn vua quan phong kiến. Sự suy tàn của xã hội phong kiến có gốc rễ từ sự thối nát, mục ruỗng từ bọn giai cấp thống trị. Đó là những tên vua ăn chơi sa đọa, không màng đến nhân dân. Đó là bọn quan tham ô, vô lại, làm nhũng nhiễu cuộc sống của người dân vô tội. Cái cười cợt của Hồ Xuân Hương với bọn vua chúa, quả thực rất sâu cay Mười bảy hay là mười tám đây Cho ta yêu dấu chẳng dời tay. Mỏng dày từng ấy, chành ba góc Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay Càng nóng bao nhiêu thời càng mát, Yêu đêm chưa phi lại yêu ngày. Hồng hồng má phấn duyên vì cậy. Chúa dấu vua yêu một cái này. Vịnh cái quạt II Thủ pháp song quan gắn với yếu tố cái tục đã tỏ ra là một thủ pháp châm biếm xuất sắc. Ở đây, những cánh cửa ẩn nghĩa hiện ra, hình thành trong tâm trí người đọc hai hình ảnh một hình ảnh của cái quạt giấy, một hình ảnh cơ thể người thiếu nữ. Mười bảy hay mười tám, ấy là số nan của quạt giấy, nhưng cũng là ẩn dụ cho tuổi xuân của người thiếu nữ. “Cay” lại là cái suốt của quạt giấy, hải đầu có mảnh kim loại nhài quạt hình tròn để chốt các nan lại ở hai nan cái, nhưng cũng gợi lên những liên tưởng về cơ quan sinh dục của con người. Đến đây người đọc không khỏi có cái cười khoái trá. Hóa ra, cái vua thích, chỉ là cái thứ “mỏng dày từng ấy, chành ba góc”, cũng là cái“Chành ra ba góc da còn thiếu/Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.” trong bài Vịnh cái quạt I. Cách diễn đạt “Chúa dấu vua yêu” với sự khẳng định “một cái này” đầy sắc sảo, bén nhọn. Vua chúa chỉ yêu một thứ ấy, có thèm để tâm đến những thứ khác đâu? Trong mắt chúa, trong mắt vua, giang sơn, xã tắc, cũng chẳng thể bằng cái vật mỏng da thừa thịt ấy! Thế chẳng phải là mục ruỗng, là suy đồi hay sao? Mục ruỗng, suy đồi từ tận gốc rễ. Mỗi xã hội đều cần một hệ tư tưởng để làm công cụ cho giai cấp thống trị. Trải qua hơn ba thế kỉ, hệ tư tưởng Nho giáo của xã hội phong kiến cũng đã bộc lộ cả những mặt mạnh, mặt yếu của mình. Đến thời kì Hồ Xuân Hương sống, hệ tư tưởng Nho giáo đã sụp đổ từ tận gốc, bởi chính những kẻ rao giảng, truyền bá nó. Bọn hiền nhân quân tử đã phạm một cách trắng trợn vào những đạo nghĩa thánh Hiền. Sự rao giảng của chúng trở thành thói đạo đức giả đáng khinh. Và tất nhiên, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương không bỏ qua chúng Mùa hè hây hẩy gió nồm đông, Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng. Lược trúc lỏng cài trên mái tóc, Yếm đào trễ xuống dưới nương long. Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm, Một mạch Đào Nguyên suối chửa thông. Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt Đi thì cũng dở ở không xong. Thiếu nữ ngủ ngày Bài thơ trước hết là sự tôn vinh vẻ đẹp cơ thể nữ. Đó là thứ vẻ đẹp căng tràn sức sống, thể hiện sự trân trọng và nhận thức sâu sắc về giá trị người nữ. Cái hay của Hồ Xuân Hương là dựa vào cái vẻ đẹp đáng trân trọng ấy để tạo ra một thứ tình huống nghịch lý, trớ trêu, thử thách bọn “quân tử hiền nhân”. Và rõ ràng, khi vương vào bẫy, cái điệu bộ của kẻ quân tử thật buồn cười “Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt Đi thì dở ở cũng không xong” Thơ Hồ Xuân Hương là thơ Việt hóa tối đa, mỗi khi sử dụng từ Hán Việt thì thường có hàm ý mỉa mai. Ở đây, chữ “quân tử” càng trang trọng bao nhiêu, ngạo nghễ bấy nhiêu, khi đặt vào tình huống này, lại càng nhục nhã, ê chề bấy nhiêu. Hiền nhân quân tử đầu đội trời chân đạp đất theo như sách Thánh hiền, lại “dùng dằng đi chẳng dứt” – điệu bộ lấm lét như một tên trộm. Câu thơ như cái nhìn cười cợt sắc bén của Hồ Xuân Hương khi đã đánh trúng vào “tim đen” của chúng, lí giải được cái tâm tính tầm thường của chúng. Tình thế này là do ai? Chẳng phải do chính thói đạo đức giả của chúng hại chúng đấy sao? Quả là nữ sĩ họ Hồ đã ra một cú “gậy ông đập lưng ông” hết sức cao tay, tài tình. Bên cạnh bọn “hiền nhân quân tử” đạo đức giả, ngòi bút Hồ Xuân Hương còn nhắm đếm một đối tượng khác cũng thuộc giới trí thức Nho học Bọn học trò dốt. Chính sách cho phép dùng tiền để mua chức vị của triều đình, “cứ tứ phẩm trở xuống, ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc, còn những người chân trắng mà nộp 2800 quan thì được bổ tri phủ, 1800 quan thì được bổ tri huyện” Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim, đã khiến cho việc giáo dục, thi cử thời kì này trở nên hỗn loạn. Chỉ cần có tiền là có thể mua được chức, quyền, đồng tiền chiếm thế thượng phong thâu tóm tất cả, các giá trị đạo đức bị chà đạp, bọn quan lại vì thế càng nhũng nhiễu dân lành, nhất là bọn quan hoạn. Cũng trong tình cảnh thi cử rối ren ấy, người có tài thì thì bị đánh rớt oan, còn bọn bất vài nhưng có tiền thì được xướng danh bảng vàng. Chính điều này đã làm xuất hiện một loại người “quái thai” trong xã hội Bọn học trò dốt, dốt nát nhưng lại tự cao tự đại, vẫn cứ tự mãn vào con chữ của mình, tự mãn rằng mình là rường cột nước nhà. Với loại người này, Hồ Xuân Hương vừa ghét, vừa coi thường. Nhóm bài thơ “Mắng học trò dốt” đã thể hiện rõ cái nhìn khinh khi của nữ sĩ với lũ học trò ngu dốt nhưng kiêu căng, ngạo mạn. Trong các giai thoại tương truyền về Hồ Xuân Hương, có ý kiến cho rằng bài “Mắng học trò dốt – I” ra đời khi Hồ Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, đang lững thững bên bờ hồ Tây thì thấy mấy thần khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau. Rồi các thầy giở giọng chớt nhả ra trêu ghẹo nàng. Có thầy lại hứng trí tung cả chữ nghĩa ra nữa. hồ Xuân Hương thấy họ trêu ghẹo thì vẫn im lặng, nhưng đến khi nghe cái thơ thẩn nửa mùa ấy thì không nhịn được nữa, nàng mới quay lại, đọc dồn cho các thầy một bài thơ rằng “Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ Lại đây cho chị dạy làm thơ. Ong non ngứa nọc châm hoa rữa, Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!” Bấy giờ, các thầy khóa nghe giọng thơ thì biết ngay là Hồ Xuân Hương. Riêng thầy đọc thơ lúc nãy thì thẹn chín người. Bài “Mắng học trò dốt II” cũng ra đời trong một hoàn cảnh thú vị không kém. Cũng một lần đi thăm chùa Trấn Quốc, Hồ Xuân Hương nhìn lên trên vách chuông, thấy bài thơ của một anh học trò nào đó đề lên. Câu kẹo ý tứ chán mớ đời. Thế mà cũng vác bút, vạch hàng để khoe ngu với khách vãng lai. Chẳng nói chẳng rằng, cô đề luôn một bài thơ vào khoảng trống bên cạnh “Dắt díu nhau lên trước cửa đền Cũng đòi học nói, nói không nên. Ai về nhắn nhủ phường lòi tói, Muốn sống đem vôi quét trả đền.” Điểm chung đặc biệt giữa hai bài thơ đó là sự ứng tác gần như tức thời, “xuất khẩu thành thơ” của nữ sĩ. Đó là tài năng thiên phú, nhưng đồng thời đó cũng là sự bùng phát của cảm xúc khinh bỉ, coi thường đối với đối tượng châm biếm. Trong những bài thơ này, Hồ Xuân Hương luôn xuất hiện như một vị bề trên, xưng “chị”, với giọng điệu xách mé, khinh khi của một kẻ ở vị trí cao hơn. Trong mắt bà, lũ học trò dốt chẳng qua chỉ là “lũ ngẩn ngơ”, “phường lòi tói”, cái thơ văn chữ nghĩa của chúng chẳng qua là trò trẻ con, ngựa non háu đá “Ong non ngứa nọc châm hoa rữa/Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!”, chẳng qua chỉ là thứ học đòi kém cỏi “Cũng đòi học nói, nói không nên”. Bài thơ ngắn gọn, xúc tích, ứng khẩu thành thơ, ấy vậy mà giọng điệu ngạo nghễ, cái nhìn khinh khi của một kẻ có tài chiếu xuống bọn bất tài, cũng sắc bén và có sức đả thương như dao, kiếm, khiến đối tượng châm biếm nhục nhã, ê chề, nhưng đành tâm phục, khẩu phục. Là một cái tôi khao khát sống mãnh liệt, Hồ Xuân Hương ghét cay ghét đắng những kẻ đạo đức giả, kìm hãm quyền tự do của con người như bọn “hiền nhân quân tử”, đồng thời, nàng cũng ghét cả những kẻ tự tách mình ra khỏi đời sống, hay nói đúng hơn, là lấy cớ đi tu để tách mình ra khỏi đời sống, nhưng bên trong thì vẫn đầy những ham muốn đồi bại, dung tục, làm xấu mặt tôn giáo mà mình đang phụng sự. Về đề tài sư hổ mang, tiếng thơ Hồ Xuân Hương cũng có những dòng cười cợt gay gắt, chua cay. Nàng đã tài tình dựng lại một bức tranh chốn tu hành hỗn tạp, rối loạn, không ra thể thống gì “Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà. Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.” Món đồ dâng lên cũng kiếng thì bày la liệt như thể món hàng ngoài chợ. Người tu hành thì không có dáng vẻ thanh tịnh của kẻ chân tu, mà lại thập thò, lén lút, nấp sau lưng “sáu bảy bà”. Đặc biệt không gian hỗn độn được đặc tả tài tình ở hai câu thơ cuối “Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha” Tiu cảnh, chũm chọe là hai thức nhạc cụ cổ truyền của Việt Nam. Tiu Cảnh là nhạc khí tự thân vang của dân tộc Việt, gồm 2 chiếc thanh la cỡ nhỏ làm bằng đồng thau, đường kính khoảng 10 cm, một chiếc thành thấp, một chiếc thành cao, với hai âm cao thấp cách nhau quãng nǎm đúng. Tiu cảnh được treo trong hai vòng tròn của một chiếc khung có tay cầm bằng gỗ. Khi biểu diễn nhạc công tay trái cầm tiu, tay phải cầm que tre có mấu gõ vào mặt thau tạo ra âm thanh cao, vang, lảnh lót. Tiu cảnh tham gia trong ban nhạc chầu vǎn, dàn bát âm, ban nhạc cúng lễ. Chũm choẹ còn gọi là não bạt, là nhạc khí tự thân vang của dân tộc Việt. Chũm chọe làm bằng hợp kim đồng thiếc, gồm hai chiếc giống nhau, hình tròn như chiếc đĩa, có núm để cầm. Khi đánh chũm chọe, hai tay cầm hai núm, dập hai mặt vào nhau, có lúc dập chéo xuống, chéo lên. Người sử dụng chũm chọe vừa đánh, vừa múa. Âm thanh chũm chọe to, vang, hơi chói tai. Chũm chọe được sử dụng trong dàn nhạc của cung đình, trong sân khấu tuồng, cải lương, trong đám rước sư tử và tham gia trong dàn nhạc dân tộc tổng hợp hoà tấu. Hai thức nhạc khí ấy được đặt tên theo âm thanh mà nó tạo ra. Ở đây, việc sử dụng tiu cảnh, chũm chọe vừa với tư cách là danh từ, vừa với tư cách là từ tượng thanh, kết hợp với biện pháp tách từ, đặt trong điệp ngữ “khi…khi…khi…” và nhịp 2/2/3gấp gáp, ồn ã đã góp phần dựng nên một khung cảnh cảnh hỗn loạn đầy những tạp âm. Câu thơ sau đối rất chỉnh với câu thơ trước, cũng điệp ngữ “giọng… giọng… giọng…” nhịp 2/2/3 và những từ mô phỏng âm thanh của con người “hì, hỉ, hi ha” đã góp phần làm tăng sự hỗn loạn của bức tranh lên đỉnh điểm. Tiếng người, tiếng vật, hỗn loạn, tạp nham… có còn đâu là chốn tu thành hành thanh tịnh, còn đâu chốn cửa Phật thiêng liêng? Với bọn sư không lo tu hành, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương có những sự khắc họa hiểm hóc, tài tình “Chẳng phải Ngô chẳng phải ta Đầu thì trọc lóc, áo không tà.” Bút pháp giễu nhại, biếm họa đã dựng nên bức chân dung các vị sư hổ mang một cách trớ trêu Chẳng phải giặc, cũng không phải quân mình. Một cách oái oăm, bà đặt sư vào một mối quan hệ đối lập sống còn xưa nay, Ngô – ta quần thù – đất nước, và cười khẩy khi khám phá ra những nét cá biệt, chẳng hiểu là Ngô hay ta của sư đầu trọc – thì chẳng phải Ngô rồi, mà áo truyền thống của ta là áo có tà, áo sư có tà đâu? Việc đẩy đối tượng châm biếm vào một vị thế lai căng, chông chênh ở giữa giống như một cái cười tinh quái. Ví với giặc, dù không phải là giặc, thì vẫn là một sự sỉ nhục. Mà bảo sư không phải dân mình, cũng lại là một sự sỉ nhục khác. Thậm chí, cái căm ghét của nữ sĩ họ Hồ có khi bật lên thành tiếng văng tục “Đầu sư há phải gì… bà cốt Bá ngọ con ong bé cái nhầm”. Ở đây, cũng phải thấy rõ rằng, Hồ Xuân Hương không hề đả kích Phật giáo, không hề đặt mình ở phía đối lập với tôn giáo. Nhưng Phật giáo thời kì này, cùng với sự biến động, nhiễu loạn của xã hội, cũng đã xuất hiện những phần tử xấu, bôi nhọ hình ảnh thanh tịnh của chốn cửa thiền. Ngòi bút của nữ sĩ hướng tới châm chích, đả kích các đối tượng ấy, cũng là một cách đòi lại sự trong sạch cho chốn chân tu. Lí do cao hơn cả, như đã nói ở trên, đó là bởi cái tôi khao khát sống của Hồ Xuân Hương không cho phép bà khoanh tay làm ngơ trước những kẻ rời bỏ cuộc sống, trốn tránh cuộc sống, mượn danh thanh bạch của chốn chân tu để làm trò đồi bại, bỉ ổi, nên đã khiến hồn thơ sắc bén, cá tính của bà nảy sinh những vần thơ châm biếm rấu sâu cay như thế. Ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương luôn thể hiện một cái tôi mạnh mẽ, bản lĩnh. Sự khẳng định ấy thể hiện trong việc nhận thức giá trị bản thân, khẳng định giá trị bản thân, thể hiện trong cách nhìn của bà về các thói hư tật xấu trong đời sống, và còn thể hiện ở lòng tự tôn dân tộc. Trong bài Đề đền Sầm Nghi Đống, thông qua việc châm biếm, đả kích một tên tướng giặc bại trận, cái tôi Hồ Xuân Hương đã được bộc lộ rất mạnh mẽ “Ghé mắt trông lên thấy bảng treo Kìa đền thái thú đứng cheo leo Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?” Đền Thái thú ở đây chỉ đền Thái thú Sầm Nghi Đống. Họ Sầm là tướng của Tôn Sĩ Nghị cầm đầu một đạo quân nhà Thanh sang xâm lược ta năm Kỉ Dậu 1789. Khi bị vua Quang Trung tấn công, quân Thanh thua chạy, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử. Sau này Hoa Kiều lập đền thờ Sầm Nghi Đống trên gò Đống Đa – Hà Nội. Dù ở bất cứ ngôi đền nào, thì thái độ của người ghé thăm thường là sự tôn kính. Thế nhưng ở đây, thái độ Hồ Xuân Hương thì hoàn toàn khác hắn. Đầu tiền là cái “ghé mắt”, ghét mắt – một cái nhìn nửa vời, không chủ ý, một cái nhìn vô tình thấy, đồng thời trong đó còn hàm chứa sự tự cao, và cả sự khinh khi với kẻ đối diện. Ở nơi thờ tự tôn nghiêm, ấy vậy mà thơ nữ sĩ họ Hồ lại có chỉ từ “kìa”, đứng tách biệt ra khỏi với câu thơ bằng nhịp 1/3/3 – đó là cái chỉ trỏ, có hàm ý coi thường. Như vậy, tư thế của Hồ Xuân Hương ở đây là một tư thế hiên ngang, ngạo nghễ, có phần ngang tàng. Mà quả thật như vậy, nàng đã không ngại ngùng khẳng định cái tôi của mình “Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?” Nàng đã không ngại ngần khẳng định khí phách của mình, nếu làm nam nhi, nàng còn có thể làm nhiều hơn thế. Cách sử dụng cụm “sự anh hùng” cũng đầy tính châm biếm, mỉa mai. Người anh hùng chân chính làm nên “sự nghiệp anh hùng”, nó to lớn, đồ sộ, khác hẳn với “sự anh hùng”, nghe nhẹ hều, mà có bề gì đấy như giả dối, như một dạng anh hùng rơm. Đã “sự anh hùng”, lại còn “há bấy nhiêu”, câu hỏi tu từ kết bài đầy tính thách thức, đầy chất mỉa mai. Ở đây ta còn thấy xuất hiện vẻ đẹp của lòng tự tôn dân tộc, qua việc sỉ nhục, khinh bỉ một tên giặc ngoại xâm bại trận. Tiếng nói của Hồ Xuân Hương là tiếng nói của cái tôi khao khát cuộc sống, của cái tôi cá nhân ngang tàng, ngạo nghễ, sẵn sàng khẳng định bản thân. Đúng, nhưng tiếng nói ấy còn có lục vượt ra khỏi khuôn khổ của cái tôi để trở thành tiếng nói của cái ta – tiếng nói chung cho thân phận người phụ nữ của thời đại. Bên cạnh những tiếng kêu than đau đớn cho số phận con người, thì Hồ Xuân Hương còn góp tiếng nói mạnh mẽ để đấu tranh, đòi quyền sống cho người phụ nữ bằng ngòi bút trào phúng của mình. Nàng đã lên tiếng bênh vực cho một cô gái trót lâm vào cảnh “Không chồng mà chửa” “Cả nể cho nên hóa dở dang, Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc Phận liễu sao đà nảy nét ngang. Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? Mảnh tình một khối thiếp xin mang. Quản bao miệng thế lời chênh lệch, Không có, nhưng mà có, mới ngoan!” Không chồng mà chửa Bài thơ giống như một lời tuyên ngôn bảo vệ hạnh phúc của người phụ nữ, đồng thời còn là một tiếng lòng đồng điệu, bày tỏ hết tâm tình của người con gái yêu bằng cả trái tim, dâng hiến tất cả, để rồi bị phụ tình. Hồ Xuân Hương đã rất mạnh mẽ bảo vệ người phụ nữ ấy “Quản bao miệng thế lời chênh lệch/Không có, nhưng mà có, mới ngoan”. Ấy là cái ý tứ mượn từ ca dao “Không chồng mà chửa mới ngoan/Có chồng mà chửa thế gian chuyện thường”. Tuy vậy, thấp thoáng đâu đó trong bài thơ còn có cái cười nhẹ, một cái cười chê trách. Không phải là ngẫu nhiên mà bài thơ xuất hiện những câu hỏi “chàng có biết chăng chàng”, “chàng nhớ chửa” . Đó là những lời dò hỏi tâm tình, đó là lời nhắc nhớ, mà đó cũng là lời oán trách. Một cái cười nhẹ mỉa mai oán trách của nữ sĩ họ Hồ. Chàng quân tử kia ơi, chàng nam nhi kia ơi, sao chàng có gan làm, mà không có gan chịu, sao chàng dám yêu, mà không dám nhận trách nhiệm, sao chàng nỡ bỏ người con gái dành tất cả cuộc đời cho chàng? Thế thì chàng còn đáng mặt nam nhi không, thế thì chàng còn mặt mũi nào mà sống trong trời đất này nữa? Cái cười mỉm ấy của Hồ Xuân Hương, hiền, nhưng chua xót, nhẹ nhàng mà thấm thía. Các lễ giáo phong kiến cùng với tư tưởng trọng nam khinh nữ và chế độ đa thê đã mang lại cho người phụ nữ biết bao cay đắng, tủi nhục. Sinh thời, Hồ Xuân Hương cũng là nạn nhân của việc làm lẽ, cũng chịu bao cay đắng, tủi hờn, đến nỗi phải thốt lên “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Bên cạnh tiếng chửi, cũng có cả những tiếng cười cợt, như bài “Khóc tổng cóc” “Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi! Thiếp bén duyên chàng có thế thôi. Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi” Tiếng cười nảy sinh từ phép chơi chữ tài tình của nữ sĩ họ Hồ, lợi dụng hiện tượng đồng âm của từ, sử dụng sự tương đồng trong các phép ẩn dụ để mang cả họ nhà cóc vào bài thơ chàng, cóc, bén, nòng nọc, chuộc. Bài thơ khóc chồng, sao lại vui vẻ thế, sao lại mang cả “họ nhà chồng” vào chế giễu như thế, có phải nữ sĩ quá tàn nhẫn không? Có thuyết cho rằng Hồ Xuân Hương làm bài “Khóc tổng Cóc” không phải do tổng Cóc chết mà là sau khi bị người vợ cả ngăn cản, chia rẽ. Vì thế Hồ Xuân Hương mới đưa tên cả họ hàng nhà Cóc vào bài thơ chế giễu. Như vậy đấy, ngay trong tình cảnh đáng thương, hẩm hiu của mình nữ sĩ họ Hồ vẫn có những dòng thơ cười cợt, châm biếm sâu cay. Chẳng hiểu tổng Cóc đọc những vẫn thơ này sẽ cảm thấy thế nào, nhưng người đọc thì thấy khâm phục một tài năng Hồ Xuân Hương, một tấm lòng ham sống của Hồ Xuân Hương. Vợ cả ngăn cản, chia rẽ, không làm gì được, nàng xem như chồng đã chết, lại còn làm cả một bài thơ khóc chồng, nhưng khóc đâu chẳng thấy, chỉ thấy cười cợt, giễu mỉa. Trong hoàn cảnh đáng thương của chính mình mà vẫn có thể cười cợt, bông lơn, đó cũng chính là khí phách “nín đi kẻo thẹn với non sông” của Hồ Xuân Hương vậy. Trong các loại trào phúng, thì yếu tố cái hài là yếu tố nhẹ nhàng nhất, nó chỉ là một cái cười nhẹ nhàng, cho vui, cho khuây khỏa, nó là cái cười không làm người ta mích lòng, cũng không phải để đả kích, chiến đấu, hay hạ bệ ai cả. Với những đề tài về người phụ nữ, ngòi bút trào phúng Hồ Xuân Hương cũng chọn cái hài hước nhẹ nhàng ấy làm công cụ bày tỏ, tiêu biểu là qua nhóm bài thơ bỡn người phụ nữ khóc chồng Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì Thương chồng nên nỗi khóc tì ti Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo Cay đắng chàng ơi vị quế chi Thạch nhũ, trần bì sao để lại Quy thân, liên nhục tẩm mang đi Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ Sinh ký chàng ơi, tử đắc quy. Bỡn bà lang khóc chồng Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng Nín đi kẻo thẹn với non sông. Ai về nhắn nhủ đàn em bé, Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung. Dỗ người đàn bà khóc chồng Cả hai bài thơ đều mở đầu bằng cụm “văng vẳng tai nghe tiếng khóc”. Rõ ràng, trước nỗi bất hạnh của người phụ nữ, trước nỗi đau của người góa phụ, Hồ Xuân Hương có sự đồng cảm sâu sắc. Nhưng tại sao ở đây lại có sự bỡn cợt? Trước hết, cần điểm lại bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Xã hội phong kiến là xã hội mang nặng tư tưởng Nho giáo, mà người phụ nữ bị kìm cặp trong tam tòng, tứ đức “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Người phụ nữ, nếu chồng chết, phải thủ tiết thờ chồng. Và cái bi kịch của con người nảy sinh ở chỗ ấy Nếu người góa phụ hẵng còn trẻ, tuổi xanh hẵng còn, chẳng lẽ phải hoài phí tuổi xanh để thờ một người đã chết? Việc tự nguyện, hay không tự nguyện, là lựa chọn của mỗi người, nhưng ta thấy rằng, quan niệm này đã gây ra bi kịch cho không ít phụ nữ. Tiếng khóc ở đây, có lẽ khóc vì thương xót chồng cũng một phần, nhưng phần nhiều là khóc cho thân phận của mình, cho số phận của chính mình. Đau đớn, tủi thân, thì phải khóc. Nhưng có lẽ, khóc, là cam chịu, là đớn hèn, là chịu khuất phục số phận. Phải chăng đó là lí do Hồ Xuân Hương, một cái tôi ngang tàn, không chịu khuất phục cất lên tiếng nói cười cợt? Hẳn là vậy, hơn nữa, Hồ Xuân Hương còn khuyên nhủ họ “Nín đi kẻo thẹn với non sông”. Cái khí thế mới ngang tàn, ngạo nghễ làm sao? Đương thời cũng có Nguyễn Công Trứ “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. So với cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ, cái khí phách nữ nhi của Hồ Xuân Hương cũng không thua kém gì, thậm chí có phần đặc biệt hơn, đặt trong bối cảnh xã hội trọng nam khinh nữ. Cái tài tình của Hồ Xuân Hương còn thể hiện ở chỗ, bút pháp trào phúng của bà không chỉ hướng đến con người và các hiện tượng cụ thể trong đời sống, mà ngay cả những hiện tượng siêu nhiên siêu hình, cũng trở thành đối tượng để bà cười cợt, trêu đùa “Khen thay con tạo khéo khôn phàm” Hang Thánh Hóa “Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc” Hang Cắc Cớ “Rõ khéo trời già đến dở dom.” Động Hương Tích Thiên nhiên tạo hóa trong mắt bà cũng là một con người bình thường để bỡn cợt, cũng khôn phàm, thậm chí ngang hàng để bà cười cợt “khen thay”, có khi thì như một người bạn để bà mắng yêu, cười mát mẻ, gọi là “trời già”, gọi là “dở dom”. Cái chơi chữ “tài xuyên tạc” trong bài “Hang Cắc Cớ” bà sử dụng cũng rất tài tình. Xuyên, tạc, đó là những hành động của người thợ chạm khắc, rất hợp với ngữ cảnh “khen ai đẽo đá”. Thế mà, “xuyên tạc”, lại là hành động bóp méo lời nói của người khác, là một hành động không hay. Cái trêu ngươi của Hồ Xuân Hương là ở chỗ đấy. Cười cợt cả tạo hóa, tự nâng mình lên ngang tầm vũ trụ, đó là biểu hiện đầy ấn tượng của cái tôi cá nhân Hồ Xuân Hương. Đồng thời, nó cũng là một biểu hiện cho một tính cách phóng khoáng, hào sảng, khát khao một cuộc sống tự do, tự tại. Tóm lại, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương hướng đến đủ mọi đối tượng, đủ thói hư tật xấu trong xã hội, đồng thời cũng rất đa dạng, đa giọng điệu, đa bút pháp. Nghệ thuật trào phúng chính là vũ khí đắc lực nhất của văn học, biến văn học trở thành công cụ cải tạo xã hội, đấu tranh với những điều xấu xa, đồi bại trong xã hội để bảo vệ lẽ phải, công lý, đòi quyền sống cho con người. Tiếng cười trào phúng của Hồ Xuân Hương, thông qua yếu tố cái tục, là thứ “khí giới vừa thanh cao vừa đắc lực mà chúng ta có, để tố cáo vạch trần một xã hội xấu xa, giả dối, làm người đọc phong phú hơn, trong sạch hơn” Thạch Lam. C. Ngôn ngữ trào phúng Hồ Xuân Hương. Để tạo nên hiệu quả trào phúng trong các tác phẩm, nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện vào loại bậc thầy của Hồ Xuân Hương là một yếu tố quan trọng không thể thiếu. Xứng đáng với danh hiệu “Bà chúa thơ Nôm”, Hồ Xuân Hương đã biết vận dụng ngôn ngữ bình dân một cách tài tình và điêu luyện, từng từ, từng chữ sử dụng đều đắt giá và có hiệu quả nghệ thuật cao. Trước hết phải kể đến việc bà sử dụng thể thơ trong các sáng tác của mình. Trong thơ Hồ Xuân Hương, thể thất ngôn bát cú hay tuyệt cú của Đường luật của Trung Quốc đã được Việt hóa để trở thành những thể thơ của nhân dân quần chúng. Biểu hiện của sự việt hóa đó như sau Thứ nhất, lời thơ như lời nói cửa miệng, không có vẻ gì là thông thái. Câu thơ đầy tính khẩu ngữ với các lời vẫy gọi ơi, hỡi, với cách gọi “bọn”, “lũ”, thậm chí cả những lời văng tục “bá ngọ…”. Trên thực tế, có những bài thơ như nhóm bài thơ Mắng học trò dốt là những bài thơ ứng khẩu, lời nói thành thơ, mà thơ như lời nói. Thứ hai, không sử dụng điển tích điển cố Trung Quốc hay từ Hán Việt, việc sử dụng từ Hán Việt nếu có, là để mỉa mai. Ta thấy rất rõ điều này trong bài “Thiếu nữ ngủ ngày”, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã hạ hai chữ “quân tử” rất đắt ở cuối bài thơ, tương phản và bị hạ bệ một cách ê chề trong hành động lấp ló, không minh bạch “đi thì dở, ở không xong”. Thứ ba, thơ Hồ Xuân Hương đã thoát khỏi đặc tính ước lệ khắt khe của thể thơ, mỗi bài của XH là một bức tranh, một câu chuyện, một lát cắt cuộc sống, sự vận động trong thơ rất sống động, mạnh mẽ, phải cẩm nhận bằng tất cả các giác quan. Thứ tư, thơ Hồ Xuân Hương Mang tính chất dân gian ở nét trào phúng, đả kích, phù hợp với nếp nghĩ truyền thống vừa vui vừa hóm, vừa đùa bỡn, cười vợt, vừa nghiêm trang, vừa nói chơi vừa nói thật… Bên cạnh việc sử dụng thể thơ độc đáo, nhịp thơ được ứng dụng uyển chuyển, đa dạng cũng làm cho thơ trào phúng Hồ Xuân Hương trở nên hấp dẫn, sức hấp dẫn trước tiên là ở sự đa giọng điệu – Thơ tuyệt cú thường là nhịp 4/3 hoặc 2/2/3. Thơ Hồ Xuân Hương nhịp rất uyển chuyển, nhiều câu đã phá vỡ khuôn nhịp cũ mà có lối nghỉ tùy thuộc vào cảnh tình, cũng như dụng ý nghệ thuật. Nhịp thơ cho ta hình dung sự chỉ trỏ một cách cụ thể. Nhịp 2/5 “Chiếc bách/buồn về phận nổi nênh” è cảnh cô đơn, bé nhỏ, cam chịu” Tự tình III Nhịp 2/3/2“Nỗi niềm/chàng có biết/chăng chàng” è sự tức tưởi, lời than thân trách phận. Sự dở dang Nhịp 1/3/3 “Kìa/cái diều ai/ nó lộn lèo” Quán Khánh Cùng với việc sử dụng thể thơ, nhịp thơ, cách xử lí chất liệu ngôn từ của Hồ Xuân Hương cũng vào loại bậc thầy. Thứ nhất, từ ngữ bà sử dụng rất hiểm hóc, hiểm hóc một cách tự nhiên, không mài dũa, trau chuốt. Đó là công cụ đánh bại kẻ thù , đánh mạnh, đánh lắt léo, đau mà đối phương không dám kêu, chỉ dám ngậm miệng căm tức. Như bài Mắng học trò dốt II, là một bài thơ ứng khẩu, chỉ cần một chữ “phường lòi tói” thôi là đã cho thấy hết bản chất ngu dốc mà thích khoe khoang của bọn học trò dốt, đồng thời cho thấy cái khinh miệt của nữ nhà thơ đến hạng người này. Cách sử dụng ngôn từ ở đây rất tự nhiên, như câu cửa miệng, mà đắt giả, hiểm hóc vô cùng. Thứ hai, Từ ngữ hết sức gợi tả trăng thu thì “đỏ lòm lom”, nước hay gió thì “vỗ phập phòm”, “rơi lõm bõm” . Bà thường xuyên sử dụng từ láy, sử dụng rất tài tình. Không thể không kể đến lối nõi ỡm ờ, nói lái như trong các truyện cười của dân gian, khi cần có thể văng tục “Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo” Chùa Quán Sứ “Đầu sư há phải gì… bà cốt Bá ngọ con ong bé cái nhầm. Sư bị ong châm “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” Làm lẽ Khả năng mô phỏng âm thanh trong thơ Hồ Xuân Hương cũng rất tài tình “Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông Nó bảo nhau rằng ấy ái uông.” Mắng học trò “Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha” Sư hổ mang Một điểm quan trọng trong việc sử dụng ngôn từ của Hồ Xuân Hương đó là hiện tượng xưng tên trong tác phẩm “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi” Mời trầu Việc xưng tên trong tác phẩm chính là biểu hiện rõ ràng nhất của việc thức tỉnh cái tôi cá nhân, và thoát li dần dần khỏi thi pháp trung đại. Đặc trưng thi pháp trung đại là phi ngã, coi trọng cái ta, cái tôi cá nhân không được nhắc đến, chứ đừng nói xưng tên trong bài thơ. Sự sụp đổ của chế độ phong kiến, cùng với sự biến đối tư tưởng xã hội đã tạo điều kiện cho cái tôi thức tỉnh, và thời kì này cũng không ít nhà thơ đã bắt đầu đưa tên vào tác phẩm. Chúng ta có Nguyễn Du “Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”, hay Nguyễn Công Trứ “Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng”. Là một người phụ nữ, vốn bị coi rẻ trong xã hội, đặt ngang với hiện tượng xưng tên của các nam thi sĩ trên, vị thế của Hồ Xuân Hương càng trở nên đặc biệt. Còn một điểm cần lưu ý nữa Nếu các nhà thơ nam kia chỉ xưng tên hiệu, thì Xuân Hương đã xưng tên thật, cách khẳng định còn có phần mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Như vậy, việc xưng tên trong thơ Hồ Xuân Hương chính là biểu hiện của một cái tôi ngang tàn, mãnh liệt Hồ Xuân Hương. Nhưng không chỉ có thế, cùng với sự xuất hiện của cái tôi Hồ Xuân Hương, thì “thân em” cũng chính thức bước từ ca dao dân ca vào địa hạt của văn học viết. Có lẽ Hồ Xuân Hương là nữ sĩ đầu tiên đặt vấn đề về người phụ nữ ở góc nhìn thứ nhất, là một người phụ nữ, nói về một người phụ nữ, và có lẽ, ở Hồ Xuân Hương, lần đầu tiên “thân em” tội nghiệp của ca dao bước vào địa hạt của văn chương bác học, vẫn giữ nguyên những cảm xúc, nỗi niềm từ ca dao, nhưng đặt trong một lớp vỏ nghệ thuật điêu luyện hơn, sắc sảo hơn. Bên cạnh đó, ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày, khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ, cũng được Hồ Xuân Hương sử dụng linh hoạt đến “ghê người” từ dùng của Giáo sư Lê Trí Viễn.
Những Bài Thơ Nôm Hồ Xuân Hương Nổi Tiếng Nhất ❤️️ Chùm Thơ Chữ Hán Hay ✅ Tổng Hợp Những Tập Thơ Xuất Sắc Nhất Của Bà Chúa Thơ Nôm Dưới Đây. Những Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Nổi TiếngTuyển Tập Chùm Thơ Chữ Nôm Hồ Xuân Hương Bất HủCác Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất HủTập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất HủChùm Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là nhà thơ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng. Mời các ban đọc thưởng thức ngay Những Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Nổi Tiếng sau đây Bánh Trôi Nước Thân em vừa trắng lại vừa tròn,Bảy nổi ba chìm với nước nát mặc dầu tay kẻ em vẫn giữ tấm lòng son. Bỡn bà lang khóc chồng Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gìThương chồng nên nõi khóc tì tiNgọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảoCay đắng chàng ơi vị quế chiThạch nhũ, trần bì sao để lạiQuy thân, liên nhục tẩm mang điDao cầu thiếp biết trao ai nhỉSinh ký chàng ơi, tử đắc quy. Cái kiếp tu hành Cái kiếp tu hành nặng đá đeoVị gì một chút tẻo tèo teoBuồm từ cũng muốn về Tây TrúcTrái gió cho nên phải lộn lèo Cái nợ chồng con Hỡi chị em ơi có biết khôngMột bên con khóc một bên chồngBố cu lổm ngổm bò trên bụngThằng bé hu hơ khóc dưới hôngTất cả những là thu với vénVội vàng nào những bống cùng bôngChồng con cái nợ là như thếHỡi chị em ơi có biết không Chùa Quán Sứ Quán Sứ sao mà cảnh vắng teoHỏi thăm sư cụ đáo nơi neoChày kinh, tiểu đế suông không đấmTràng hạt vãi lần đếm lại đeoSáng banh không kẻ khua tang mítTrưa trật nào ai móc kẽ rêuCha kiếp đường tu sao lắt léoCảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo Chợ Trời chùa Thầy Hoá công xây đắp đã bao đời,Nọ cảnh Sài Sơn có chợ sớm gió đưa trưa nắng đứng,Ban chiều mây họp, tối trăng hàng hoa quả tứ mùa sẵn,Mở phố giang sơn bốn mặt lợi mua danh nào những kẻ,Chẳng nên mặc cả một đôi lời. Cảnh chùa ban đêm Tình cảnh ấy, nước non nàyDẫu không Bồng Đảo cũng Tiên đâyHành Sơn mực điểm đôi hàng nhạnThứu Lĩnh đen trùm một thức mâyLấp ló đầu non vầng nguyệt chếchPhất phơ sườn núi lá thu bayHỡi người quân tử đi đâu đóThấy cảnh sao mà đứng lượm tay Cảnh thu Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,Trắng xóa tràng giang phẳng lặng giốc giang sơn say chấp rượu,Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơCho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ. Ngoài bà chúa thơ nômGiới thiệu đến bạn đọc chùm 🌻 Thơ Hồ Xuân Hương Châm Biếm 🌻 trào phúng Tuyển Tập Chùm Thơ Chữ Nôm Hồ Xuân Hương Bất Hủ Có thể nói nét nổi bật trong sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ. Cùng cảm nhận rõ hơn qua Tuyển Tập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Đặc Sắc được sưu tầm dưới đây nhé! Dệt cửi Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phauCon cò mấp máy suốt đêm thâuHai chân đạp xuống năng năng chắcMột suốt đâm ngang thích thích mauRộng hẹp nhỏ to vừa vặn cảNgắn dài khuôn khổ cũng như nhauCô nào muốn tốt ngâm cho kỹChờ đến ba thu mới dãi màu Dỗ người đàn bà khóc chồng Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồngNín đi kẻo thẹn với non sôngAi về nhắn nhủ đàn em béXấu máu thì khem miếng đỉnh chung Đá Ông Chồng Bà Chồng Khéo khéo bày trò tạo hoá côngÔng Chồng đã vậy lại Bà ChồngTầng trên tuyết điểm phơ đầu bạcThớt dưới sương pha đượm má hồngGan nghĩa dãi ra cùng tuế nguyệtKhối tình cọ mãi với non sôngĐã kia còn biết xuân già giặnChả trách người ta lúc trẻ trung Đài Khán Xuân Êm ái chiều xuân tới khán đàiLâng lâng chẳng bợn chút trần aiBa hồi triêu mộ chuông gầm sóngMột vũng tang thương nước lộn trờiBể ái nghìn trùng khôn tát cạnNguồn ân muôn trượng dễ khơi vơiNào nào cực lạc là đâu táCực lạc là đây chín rõ mười Đánh đu Bốn cột khen ai khéo khéo trồngNgười thì lên đánh kẻ ngồi trôngTrai đu gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa lòngBốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân hạc duỗi song songChơi xuân có biết xuân chăng táCọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không Đèo Ba Dội Một đèo, một đèo, lại một đèoKhen ai khéo tạc cảnh cheo leoCửa son đỏ loét tùm hum nócHòn đá xanh rì lún phún rêuLắt lẻo cành thông cơn gió thốcĐầm đìa lá liễu giọt suơng gieoHiền nhân quan tử ai mà chẳngMỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo Đền Sầm Nghi Đống Ghé mắt trông ngang thấy bảng treoKìa đền thái thú đứng cheo leoVí đây đổi phận là trai nhỉThì sự anh hùng há bấy nhiêu! Động Hương Tích Bày đặt kia ai khéo khéo phòmNứt ra một lỗ hỏm hòm homNgười quen cõi Phật xen chân xoạcKẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòmGiọt nước hữu tình rơi thánh thótCon thuyền vô trạo cúi lom khomLâm tuyền quyến cả phồn hoa lạiRõ khéo trời già đến dở dom Giếng thơi Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ trắng phau phau đôi ván ghép,Nuớc trong leo lẻo một dòng gà lún phún leo quanh mép,Cá diếc le te lách giữa ấy thanh tân ai cũng biết,Đố ai dám thả nạ dòng dòng. Hang Cắc Cớ Trời đất sinh ra đá một chòmNứt làm hai mảnh hỏm hòm homKẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻnLuồng gió thông reo vỗ phập phòmGiọt nước hữu tình rơi lõm bõmCon đường vô ngạn tối om omKhen ai đẽo đá tài xuyên tạcKhéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm Đón đọc thêm 🔻 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du 🔻 bất hủ Các Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa Thơ Nôm”, bởi vậy Các Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương luôn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho các bạn đọc, mỗi bài thơ đều là những tâm tư tình cảm mà tác giả gửi gắm vào. Hang Thánh Hoá Khen thay con tạo khéo khôn phàmMột đố giương ra biết mấy ngoàmLườn đá cỏ leo sờ rậm rạpLách khe nước rỉ mó lam nhamMột sư đầu trọc ngồi khua mõHai tiểu lưng tròn đứng sau amĐến mới biết là Hang Thánh HoáChồn chân mỏi gối vẫn còn ham! Hỏi trăng Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?Hỏi con Ngọc Thỏ đà bao tuổi?Chứ chị Hằng Nga đã mấy con?Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng?Ngày xanh sao lại thẹn vừng son?Năm canh lơ lửng chờ ai đó?Hay có tình riêng với nước non? Khóc ông phủ Vĩnh Tường Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!Cái nợ ba sinh đã trả chặt văn chuơng ba thước đất,Tung hê hồ thỉ bốn phương cân tạo hóa rơi đâu mất,Miệng túi càn khôn khép lại bảy tháng trời là mấy chốc,Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi! Không chồng mà chửa Cả nể cho nên hoá dở dangNỗi niềm chàng có biết chăng chàngDuyên thiên chưa thấy nhô đầu trọcPhận liễu sao đà nảy nét ngangCái nghĩa trăm năm chành nhớ chửaMảnh tình một kiếp thiếp xin mangQuản bao miệng thế lời chệnh lệchKhông có, nhưng mà có, mới ngoan Kẽm Trống Hai bên thì núi giữa thì sôngCó phải đây là Kẽm Trống không?Gió giật sườn non khua lắc cắcSóng dồn mặt nước vỗ long ongỞ trong hang núi còn hơi hẹpRa khỏi đầu non đã rộng thùngQua cửa mình ơi! Nên ngắm lạiNào ai có biết nỗi bưng bồng Làm lẽ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùngChém cha cái kiếp lấy chồng chungNăm thì mười họa hay chăng chớMột tháng đôi lần có như khôngCố đấm ăn xôi xôi lại hẩmCầm bằng làm mướn mướn không côngThân này ví biết dường này nhỉThà trước thôi đành ở vậy xong Lũ ngẩn ngơ Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơLại đây cho chị dạy làm thơÔng non ngứa nọc châm hoa rữaDê cỏn buồn sừng húc giậu thưa Miếng trầu Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôiNày của Xuân Hương đã quệt rồiCó phải duyên nhau thì thắm lạiĐừng xanh như lá bạc như vôi Phường lòi tói Dắt díu nhau lên đến cửa chiềnCũng đòi học nói, nói không nênAi về nhắn bảo phường lòi tóiMuốn sống đem vôi quét trả đền. Quan thị Mười hai bà mụ ghét chi nhauĐem cái xuân tình vứt đi đâuRúc rích thây cha con chuột nhắtVo ve mặc mẹ cái ong bầuĐố ai biết đó vông hay trốcCòn kẻ nào hay cuống với đầuĐã thế thì thôi thôi mặc thếTrăm năm càng khỏi tiếng nương dâu Bật mí cho bạn đọc tập 💙 Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi 💙 nổi tiếng Tập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ Tiếp theo là Tập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ, mời bạn đọc cùng đón đọc thêm nhé! Sư bị ong châm Nào nón tu lờ nào mũ thâmĐi đâu chẳng đội để ong châmĐầu sư há phải gì… bà cốtBá ngọ con ông bé cái nhầm Sư hổ mang Chẳng phải Ngô, chẳng phải taĐầu thì trọc lốc áo không tàOản dâng trước mặt dăm ba phẩmVãi núp sau lưng sáu bảy bàKhi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹGiọng hì, giọng hỉ, giọng hi haTu lâu có lẽ lên sư cụNgất nghểu toà sen nọ đó mà Tát nước Đang cơn nắng nực chợt mưa tèRủ chị em ra tát nước kheLẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụmLênh đênh một ruộng bốn bờ beXì xòm đáy nước mình nghiêng ngửaNhấp nhổm bên ghềnh đít vắt veHam việc làm ăn quên cả mệtDạng hang một lúc đã đầy phè Thiếu nữ ngủ ngày Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,Thiếu nữ nằm chơi quá giấc trúc lỏng cài trên mái tóc,Yếm đào trễ xuống dưới nương gò Bồng Đảo hương còn ngậm,Một mạch Đào Nguyên suối chửa tử dùng dằng đi chẳng dứtĐi thì cũng dở ở không xong. Tranh tố nữ Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình ?Chị cũng xinh mà em cũng lứa như in tờ giấy năm còn mãi cái xuân mai chi dám tình trăng gió,Bồ liễu thôi đành phận mỏng manhCòn thú vui kia sao chẳng vẽ,Trách nguời thợ vẽ khéo vô tình. Trăng thu Một trái trăng thu chín mõm mòmNày vừng quế đỏ, đỏ lòm lomGiữa in chiếc bích khuôn còn méoNgoài khép đôi cung cánh vẫn khòmGhét mặt kẻ trần đua xói mócNgứa gan thằng Cuội đứng lom khomHỡi người bẻ quế rằng ai đóĐó có Hằng Nga ghé mắt dòm Trống thủng Của em bưng bít vẫn bùi ngùiNó thủng vì chưng kẻ nặng vắng đập tung dăm bảy chiếc,Đêm thanh đánh lộn một đôi dang thẳng cánh bù khi cúi,Chiến đứng không thôi lại chiến nhủ ai về thương lấy với,Thịt da ai cũng thế mà thôi. Tự tình I Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,Oán hận trông ra khắp mọi thảm không khua mà cũng cốc,Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ,Sau giận vì duyên để mõm tử văn nhân ai đó tá?Thân này đâu đã chịu già tom! Tự tình II Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,Trơ cái hồng nhan với nước rượu hương đưa say lại tỉnh,Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,Xiên ngang mặt đất, rêu từng toạc chân mây, đá mấy nỗi xuân đi xuân lại lại,Mảnh tình san sẻ tí con con! Tự tình III Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,Giữa dòng khao khát nỗi lênh khoang tình nghĩa dường lai láng,Nửa mạn phong ba luống bập lái mặc ai lăm đỗ bến,Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ai thăm ván cam lòng vậy,Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh. Vịnh cái quạt Mười bảy hay là mười tám đây,Cho ta yêu dấu chẳng rời dày chừng ấy, chành ba góc,Rộng hẹp dường nào, cắm một nóng bao nhiêu thời càng mát,Yêu đêm không phỉ lại yêu hồng má phấn duyên vì cậy,Chúa dấu vua yêu một cái này. Vịnh cái quạt II Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,Duyên em dính dán tự bao ra ba góc da còn lại đôi bên thị vẫn mặt anh hùng khi tắt gió,Che đầu quân tử lúc sa niu ướm hỏi người trong trướng,Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ? Gửi tặng bạn chùm 💜 Thơ Chữ Hán Của Hồ Chí Minh 💜 hay nhất Chùm Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất Đừng bỏ lỡ Chùm Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất được sưu tầm sau đây Độ Hoa Phong – 渡華封 片帆無急渡華封,峭壁丹崖出水中。水勢每隨山面轉,山形斜靠水門通。魚龍雜處秋煙薄,鷗鷺齊飛日照紅。玉洞雲房三百六,不知誰是水晶宮。 Phiên âm Hán Việt Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong,Tiễu bích đan nhai xuất thủy thế mỗi tùy sơn diện chuyển,Sơn hình tà kháo thủy môn long tạp xử thu yên bạc,Âu lộ tề phi nhật chiếu động vân phòng tam bách lụcBất tri thùy thị Thủy Tinh cung Dịch nghĩa Lá buồm không vội vượt qua vũng Hoa Phong,Vách đá đứng, sườn núi đỏ, giữa nước chỏi dựng nước tùy chỗ theo mặt núi mà biến núi nghiêng mình, nép tựa cửa lạch để nước thông rồng lẫn lộn, tăm khuất dưới từng hơi nước mỏng mùa cò cùng bay trong ánh đỏ mặt trời Tiên có ba trăm sáu động ngọc và phòng mây,Đây không biết chốn nào là cung Thủy Tinh. 過京瑤祠懷古 – Quá Khinh Dao từ hoài cổ 山海桑蓬古已來,長途著腳乍關懷。庭前象馬銀雙鎖,宮裡衣冠玉一堆。草木暗隨冬雪老,江山還為昔人哀。皇天有意開新運,風捲紅塵拂劫灰。 Phiên âm Hán Việt Sơn hải tang bồng cổ dĩ lai,Trường đồ trước cước sạ quan tiền tượng mã ngân song toả,Cung lý y quan ngọc nhất mộc ám tuỳ đông tuyết lão,Giang sơn hoàn vị tích nhân thiên hữu ý khai tân vận,Phong quyển hồng trần phất kiếp hôi. Hải ốc trù – 海屋籌 蘭橈隨意漾中流,景比山陽更覺幽。生面獨開雲露骨,斷鼇爭崎客回頭。馮夷疊作擎天柱,龍女添為海屋籌。大抵始皇鞭未及,古留南甸鞏金甌。 Phiên âm Hán Việt Lan nhiêu tuỳ ý dạng trung lưuCảnh tỉ sơn dương cánh giác uSinh diện độc khai vân lộ cốtĐoạn ngao tranh kị khách hồi đầuBằng Di diệp tác kình thiên trụLong Nữ thiêm vi hải ốc trùĐại để Thuỷ Hoàng tiên vị cậpCố lưu Nam điện củng kim âu. Dịch nghĩa Phe phẩy mái chèo, tuỳ thích cỡi thuyền dong chơi giữa duềnh,Qua gần chân núi lại thấy cảnh càng thoảng qua, núi lộ mặt, thấy đá chơ vơ,Những khối lèn dựng cao vút khi qua dưới, khách phải vếch là hải thần Bằng Di đã dựng cột để chống trời nghiêng,Hoặc là hải thần Long Nữ đã nối thêm cây nêu trỏ cung điện dưới chừng vua Tần Thuỷ Hoàng chưa từng đi kinh lí đến chỗ này,Vì trời vốn dành nó lại ở xứ Nam này để làm vững chắc cơ đồ nước ta. 半枕書懷 – Bán chẩm thư hoài 半天風雨半天晴,旅況淒涼入夢醒。吟客有神來色相,情魔無力卻愁兵。衾中半瘦風流骨,榻上平分海角情。一片無聊言不盡,塵寰安得眼雙清。 Phiên âm Hán Việt Bán thiên phong vũ bán thiên tình,Lữ huống thê lương nhập mộng khách hữu thần lai sắc tướng,Tình ma vô lực khước sầu trung bán sấu phong lưu cốt,Tháp thượng bình phân hải giác phiến vô liêu ngôn bất tận,Trần hoàn an đắc nhãn song thanh. Dịch nghĩa Nửa trời mưa gió, nửa trời tạnh quangTình cảnh ở quán trọ thê lương mê rồi tỉnhKhách ngâm thơ có thần đến dáng vẻMa tình không sức rụt vũ khí buồnLúc ngủ trong chăn thì hao nửa thân mình phong nhãKhi “thức” trên giường thì chia đều biển ái ânMột cảnh không hứng thú không tả hếtCõi trần thường thích cả đôi mắt xanh. 鎮北寺 – Đề Trấn Quốc tự 莊臨誰是景中人,細細清風扇扇薰。水月波籠蓮插茁,香煙寶憩露連雲。洗空塵慮花含態,喚醒迷途草亦春。到景令人回首望,東南拂袖鴈成群。 Phiên âm Hán Việt Trang lâm thuỳ thị cảnh trung nhân,Tế tế thanh phong phiến phiến nguyệt ba lung liên tháp truất,Hương yên bảo thoại lộ liên không trần lự hoa hàm thoại,Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc cảnh linh nhân hồi thủ vọng,ông nam phất tụ nhạn thành quần. Dịch nghĩa Trang trọng tới nơi, ai là người trong cảnh,Nhè nhẹ gió mát quạt từng làn hơi nước sóng vờn sen chen nụ,Khói hương tàn bám móc liền sạch trần tục phiền não, hoa e ấp,Đường mê gọi tỉnh, cỏ cây phô sắc cảnh khuyên người quay đầu ngắm,Hướng đông nam phất áo vẫy nhạn bay thành đàn. 眼放青 – Nhãn phóng thanh 微茫螺黛拓滄溟,到此須教眼放青。白水磨成千刃劍,寒潭飛落一天星。怪形未已標三甲,神力奚庸鑿五丁。仿佛雲頹頭暗點,高僧應有坐談經。 Phiên âm Hán Việt Vi mang loa đại tháp thương minh,Đáo thử tu giao nhãn phóng thuỷ ma thành thiên nhẫn kiếm,Hàn đàm phi lạc nhất thiên hình vị dĩ tiêu tam giáp,Thần lực hề dung tạc Ngũ phất vân đồi đầu ám điểm,Cao tăng ưng hữu toạ đàm kinh. Dịch nghĩa Mầu lam nhạt mờ mờ nối trời xa với bể xa,Đến đây, tưởng như trong aắt toả sắc xanh bạc mài đá thành nghìn mũi gươm nhọn,Giữa đầm vắng, hình như có một sao trời sa đá hình kì quái không dễ dùng làm bảng đề danh kẻ đỗ đại khoa,Nếu không sức thần thì sao tạc nổi tượng lực sĩ hùng dũng như phất mây xuống thấp, phía trên đã xẩm tối,Chắc đã có vị cao tăng ngồi yên lặng tụng kinh. 塞外聞砧 – Tái ngoại văn châm 倏聞江鼓戍江城,忽得寒砧奏耳聽。續斷霜中驚雁陣,依稀壁下亂虫聲。征夫欲破深閨夢,遊子還添故國情。得意不知勤苦藥,管弦韻韻間雞鳴。 Phiên âm Hán Việt Thúc văn giang cổ thú giang thành,Hốt đắc hàn châm tấu nhĩ đoạn sương trung kinh nhạn trận,Y hy bích hạ loạn trùng phu dục phá thâm khuê mộng,Du tử hoàn thiêm cố quốc ý bất tri cần khổ dược,Quản huyền vận vận gián kê minh. Dịch nghĩa Chợt nghe tiếng trống ở thành bên sôngBất ngờ hợp với tiếng chày lạnh nhịp bên taiLúc vang lúc bặt trong màn sương khiến bầy nhạn kinh sợPhảng phất dưới chân tường dế kêu loạn xạNgười lính muốn phá giấc mộng nơi khuê phòng của vợKhách dạo thuyền càng thêm nặng tình cố quốcMải mê suy nghĩ mà không hay có liều thuốc chữa khổ luỵTiếng sáo hoà với tiếng đàn chen lẫn tiếng gà gáy bình minh. 故京秋日 – Cố kinh thu nhật 冉冉征塵秋月斜,一盃還送舊繁華。一蘇水潦西流盡,三島晴光北望賒。燈月青氈悲故物,霜前白露落誰家。此來相對重相憶,客久年深奈若何。 Phiên âm Hán Việt Nhiễm nhiễm chinh trần thu nguyệt tà,Nhất bôi hoàn tống cựu phồn Tô thuỷ lạo tây lưu tận,Tam Đảo tình quang bắc vọng nguyệt thanh chiên bi cố vật,Sương tiền bạch lộ lạc thuỳ lai tương đối trùng tương ức,Khách cửu niên thâm nại nhược hà. 秋日即事 – Thu nhật tức sự 西風昨夜壓寒枝,籬菊蕭疏雪未飛。密雨斜篩紛水面,孤雲描織遠山眉。蓮餘殘夏留春帶,柳徬饒香老翠衣。啼鳥莫非知我況,聲聲長動故鄉思。 Phiên âm Hán Việt Tây phong tạc dạ áp hàn chi,Ly cúc tiêu sơ tuyết vị vũ tà si phân thuỷ diện,Cô vân miêu chức viễn sơn dư tàn hạ lưu xuân đới,Liễu bạng nhiêu hương lão thuý điểu mạc phi tri ngã huống,Thanh thanh trường động cố hương ty tư. Dịch nghĩa Đêm qua gió tây xô dạt cành câyDậu cúc lưa thưa tuyết chưa bayMưa lớn nghiêng đổ khuấy động mặt nước mặt phấn, mặt sángMây thưa thêu vẽ tránh xa nét mi xanh giống như màu núiSen thừa hạ hết dây xuân cũ sótLiễu tựa nhiều hương áo biếc xưaChim khóc chẳng ai không hiểu tình cảnh của mìnhTừng tiếng dài khuấy động tấm tình quê. 少年遊調 – Thiếu niên du điệu 瓊筳座花,𢒎觴對月,風流屬誰家?李子飛輝豪,徐妃援筆,思雅入詩歌。今夕是如何?促席談心。回燈敘事,撫筆一呵呵。 Phiên âm Hán Việt Quỳnh diên toạ hoa,Phi trường đối nguyệt,Phong lưu thuộc thuỳ gia?Lý tử phi hào,Từ phi viên bút,Tứ nhã nhập thi tịch thị như hà?Xúc tịch đàm đăng tự sự,Phủ bút nhất kha kha. 秋風歌 – Thu phong ca 秋風起兮白雲飛,草木黃落兮雁南歸。蘭有秀兮菊有芳,懷佳人兮不能忘。我有酒兮無對飲,我有琴兮無知音。不酌酒兮不鳴琴,數杯清茗兮故人心。 Phiên âm Hán Việt Thu phong khởi hề bạch vân phi,Thảo mộc hoàng lạc hề nhạn nam hữu tú hề cúc hữu phương,Hoài giai nhân hề bất năng hữu tửu hề vô đối ẩm,Ngã hữu cầm hề vô tri chước tửu hề bất minh cầm,Sổ bôi thanh dính hề cố nhân tâm. 入安邦 – Nhập An Bang 浪跡風塵未迓繮,漂零書劍入安邦。渠爐天地心千里,蝸角山河眼一雙。詩價感雲山鬼泣,愁城僚者酒兵降。興含欲借倂州剪,剪此其風水半間。 Phiên âm Hán Việt Lãng tích phong trần vị nhạ cương,Phiêu linh thư kiếm nhập An lô thiên địa tâm thiên lý,Oa giốc sơn hà nhãn nhất soang song.Thi giá cảm vân sơn quỷ khấp,Sầu thành liêu giả tửu binh hàm dục tá Tinh châu tiễn,Tiễn thử kỳ phong thuỷ bán giang. 漁翁曲行 – Ngư ông khúc hành 野翁淡泊亦繁花,錯認桃源是薜蘿。寄語挳舟從釣子,過江應不聽琵琶。過江莫聽琵琶,高聲不似胡笳悽涼。桃源水闊山長,漁翁一棹仙堂半開。萬重春鎖天台,琴聲樂角聲哀不同。寒山草色蔥蔥,蘇溪幾到清風自閑。 Phiên âm Hán Việt Dã ông đạm bạc diệc phồn hoa,Thác nhận Đào Nguyên thị bệ ngữ khinh chu tòng điếu tử,Quá giang ưng bất thính tỳ giang mạc thính tỳ bà,Cao thanh bất tự Hồ già thê nguyên thuỷ khoát sơn trường,Ngư ông nhất trạo tiên đường bán trùng xuân toả Thiên Thai,Cầm thanh lạc, giốc thanh ai bất sơn thảo sắc thông thông,Tô khê kỷ đáo thanh phong tự nhàn. Dịch nghĩa Lão nhà quê ăn lạt mặc mỏng mà vẫn phong lưuÁo thô mà cứ tưởng sống cảnh tiênGởi lời người phụ câu quay thuyền vềQua sông không nghe được tiếng tỳ bàQua sông chớ nghe tiếng tỳ bàÂm cao không giống kèn Hồ thê lươngĐào Nguyên sông rộng núi dàiNgư ông chăm chú chèo, cửa tiên hé raVạn trùng xuân bến Thiên ThaiTiếng đàn vui, tiếng tù buồn không hoàNúi lạnh sắc cỏ xanh xanhSuối Tô tự đầy, gió mát tự nhàn 水雲鄉 – Thuỷ vân hương 雲根石竇似蜂房,滿目山光接水光。涉海鑿山癡李勃,負舟藏壑拜元章。螺痕夕霽嶙峋出,霧影朝迷次第藏。漫說漁人舟一葉,教重門戶水雲鄉。 Phiên âm Hán Việt Vân căn thạch đậu tự phong phòngMãn mục sơn quang tiếp thuỷ quangThiệp hải tạc hà si Lí BộtPhụ chu tàng hác bái Nguyên ChươngLoa ngân tịch tễ lân tuần xuấtVụ ảnh triêu mê thứ đệ tàngMạn thuyết ngư nhân chu nhất diệpSổ trùng môn hộ Thuỷ Vân hương. Dịch nghĩa Dưới chân mây, bày hang đá như tổ ông;Đầy mặt thấy ánh sáng trên núi tiếp với ánh sáng dưới bể để đi đục núi như Lí Bột thật là ngây,Đột thuyền lên cạn giấu trong hang như Nguyên Chương thì đáng phụcBuổi chiều trời lạnh, sóng gợn lăn tăn hiện ra,Ban sáng màn mù che núi lần lượt rút chuyện bảo rằng người chài dong chiếc thuyền kia,Đang len lỏi qua nhiều từng cửa tìm vào làng Tiên. 秋雨 – Thu vũ 天隔雲陰慘不明,蕭蕭秋雨落閒庭。短長枯樹枝頭淚,舒急黃蕉葉上聲。吟斷低迷千里夢,愁牽寥落五更情。深閨最苦如花面,一片愁容畫不成。 Phiên âm Hán Việt Thiên cách vân âm thảm bất minh,Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn trường khô thụ chi đầu lệ,Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng đoạn đê mê thiên lý mộng,Sầu khiên liêu lạc ngũ canh khuê tối khổ như hoa diện,Nhất phiến sầu dung hoạ bất thành. Dịch nghĩa Bầu trời mây che tăm tối ảm đạmMưa thu tí tách rơi ngoài sân vắngNhánh cây khô giọt lệ ngắn dàiLá chuối vàng tiếng giũ chậm nhanhKhóc dứt đê mê ngàn dặm mộngSầu vương lác đác năm canh tìnhPhòng khuê thật buồn như mặt hoaHình dáng nỗi buồn không hoạ được Xem thêm tập 💚 Thơ Chữ Hán 💚 Những Bài Nổi Tiếng Tình Yêu, Cuộc Sống
Thơ hay Hồ Xuân HươngTop 12 bài thơ hay nhất của Hồ Xuân Hương. Các bài thơ sau đây nằm trong những tập thơ và những bài thơ hay nhất của nhà thơ Hồ Xuân Xuân Hương mệnh danh là bà chúa thơ Nôm, và là nhà thơ. Những tác phẩm mà Hồ Xuân Hương sáng tác với nội dung hết sức độc đáo, mới mẻ và mang phong cách nghệ thuật và giá trị sâu sắc. Sáng tác của bà hầu như viết về những người phụ nữ có thân phận thấp kém trong xã hội đương đại, bất hạnh và chịu bao đắng cay cuộc Thơ tự tìnhTự tình 1Tiếng gà xao xác gáy trên vòmOán hận trông ra khắp mọi chòmMõ thảm không khua mà cũng cốcChuông sầu chẳng đánh cớ sao omTrước nghe những tiếng thêm rầu rĩSau hận vì duyên để mõm mòmTài tử văn nhân ai đó táThân này đâu đã chịu già tình 2Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,Trơ cái hồng nhan với nước rượu hương đưa say lại tỉnh,Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,Xiên ngang mặt đất, rêu từng toạc chân mây, đá mấy nỗi xuân đi xuân lại lại,Mảnh tình san sẻ tí con con!Tự tình 3Chiếc bánh buồn vì phận nổi nênh,Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh khoang tình nghĩa dường lai láng,Nửa mạn phong ba luống bập lái mặc ai lăm đỗ bến,Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ai thăm ván cam lòng vậy,Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.==>Đại ý bài thơTự Tình lại là một bài thơ hay khác nói về cảm xúc đặc biệt trong lòng cho mỗi người đọc. Nó mang những điều đặc biệt và trong những hình ảnh nói về về một đất nước thái bình, người phụ nữ không phải chịu những đau đớn và tình duyên ngang trái lỡ làng nữa. Điều đó cũng mang đậm những hình ảnh thơ và những hình tượng sâu sắc về một sắc thái nhẹ nhàng, những cảm xúc về sự phẫn uất và cả những sự đồng cảm riêng về con người. Một khát khao lớn về hạnh phúc của tác giả mà khiến ai cũng mong nhớ, khát khao có một cuộc tình ấm nồng, đầy cảm xúc hình tượng thơ dạt dào và lay chuyển tâm hồn người đọc. Ở đây hình tượng thơ của bà đã mang những nỗi nhớ miên man, sâu sắc vào cho tâm thần của mỗi con Cảnh thuThánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,Xanh ôm cổ thụ tròn xoe tán,Trắng xóa tràng giang phẳng lặng dốc giang sơn say chấp lưng phong nguyệt nặng vì hay, cánh cương ưa người nhỉ,Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.==>Ý nghĩa bài thơ có hiểu theo nghĩa đơn giản đó là Cảnh thu tiêu sơ, ngoạn mục, tuyệt vời. Những giọt mưa rơi giữa trời không ngớt, từng giọt, từng giọt đổ xuống từ tàu lá chuối. Dù có bút thần đi chăng nữa cũng không thể nào vẽ lên được cũng không thể nào vẽ lên được cái phong cảnh có chút đượm buồn, đơn sơ ấy. Qua hai câu tiếp theo đường nét màu sắc của bức tranh có chút thay đổi. Đó là màu sắc tốt tươi, xanh tốt của cây cổ thụ với tán cây thật tròn. Đó là con sông êm ả lặng lờ trôi, phản chiếu xuống dòng sông là màu trắng của mây trời, trôi đoạn tiếp, ý hiểu là người đã chếnh choáng say, cho dù đã có tửu lượng trong người, đã cạn hết bầu rượu bầu dốc, nhưng trước cảnh sắc của thiên nhiên vẫn muốn chấp rượu. Người say không chỉ vì say rượu mà say còn bởi vì cảnh đẹp của giang Vịnh cái quạtMột lỗ xâu xâu mới cũng vừaDuyên em dính dán tự ngàn xưaChành ra ba góc da còn thiếuKhép lại đôi bên thịt vẫn thừaMát mặt anh hùng khi tắt gióChe đầu quân tử lúc sa mưaNâng niu ướm hỏi người trong trướng“Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”==> Đại ý bài thơThơ của Hồ Xuân Hương luôn có nhiều hàm ý, với bài thơ này theo tôi hiểu chung đây là bài thơ miêu tả về về đẹp của người phụ nữ. Nhưng cũng có thể theo Hồ Xuân Hương ý nghĩa trong những bài thơ này là ý khác. Hoặc bà chỉ đơn giản miêu tả cái quạt giấy gấp mà thôi…. Nếu đã không thể tìm câu trả lời chính xác từ chính chủ, thôi thì ta… đơn giản cứ tin những gì mình nghĩ, cảm nhận cái đẹp theo cách mà ta cảm nhận Bánh trôi nướcThân em vừa trắng, lại vừa tròn,Bảy nổi ba chìm với nước nát mặc dầu tay kẻ nặn,Mà em vẫn giữ tấm lòng son.===>Nhà thơ mượn hình ảnh bánh trôi nước để nói lên thân phận của người phụ nữ nói chung và thân phận mình nói riêng. Hình ảnh bánh trôi nước, một hình ảnh mới và lại khá quen thuộc khi được nữ sĩ đưa vào thơ của Vấn nguyệtTrải mấy thu nay vẫn hãy còn,Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi?Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con?Đêm tối cớ sao soi gác tía?Ngày xanh còn thẹn mấy vầng canh lơ lửng chờ ai đó?Hay có tình riêng mấy nước non?==>Đại ý Đó là có thể là lời tâm sự của người con gái mới biết yêu. “Hồ Xuân Hương đã yêu Nguyễn Du rồi sau đó tự vấn lòng mình*1-2 Hỏi vầng trăng muôn thuở, Trải mấy thu nay vẫn hãy còn, những câu hỏi vu vơ, vì sao vầng trăng khi khuyết lại khi tròn.*3-4 Hỏi con bạch thố, thỏ bạch trên cung trăng được bao nhiêu tuổi; và chị Hằng Nga bây giờ đã được mấy con…*5-6 Đêm tối cớ chi soi duyên nàng đến với Nguyễn Du, con nhà quyền quý ở gác tía lầu son. Khiến cho ngày xanh gặp nhau, thẹn với mặt trời đang lên.*7-8 Năm canh lơ lửng trằn trọc nhớ ai, hay đã có tình riêng với nước non6. Động Hương tíchBầy đặt kìa ai khéo khéo phòm,Nứt ra một lỗ hỏm hòm quen cõi Phật chen chân xọc,Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt nước hữu tình rơi thánh thót,Con thuyền vô trạo cúi lom tuyền quyến cả phồn hoa lại,Rõ khéo trời già đến dở dom.==>Một bài thơ khác của Hồ Xuân Hương tuy chẳng chứa từ xuân, song nó vẫn mang đậm khí vị hội xuân “Động Hương Tích” là một địa danh chỉ thắng cảnh trung tâm quần thể di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng cả nước. Chùa Hương ở huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, từ ngày 1-8-2008 sáp nhập vào địa bàn thành phố Hà Nội. Chùa ấy là nơi khách thập phương nô nức trẩy hội mỗi dịp xuân Đá Ông Bà ChồngKhéo khéo bày trò tạo hoá côngÔng Chồng đã vậy lại Bà ChồngTầng trên tuyết điểm phơ đầu bạcThớt dưới sương pha đượm má hồngGan nghĩa dãi ra cùng chị NguyệtKhối tình cọ mãi với non sôngĐá kia còn biết xuân già giặnChả trách người ta lúc trẻ trungMùa xuân là một mùa trong năm, một sự chuyển biến theo chu kì thời gian. Qua thơ bài thơ, mùa xuân được chuyển dịch theo một quỹ đạo tâm lý. Với nữ sĩ, mùa xuân hừng hực cá tính, dồi dào sinh lực đã hiện lên chân thật cả khối tình"Gan nghĩa dãi ra cùng tuế nguyệtKhối tình cọ mãi với non kia còn biết xuân già dặn"Chả trách người ta lúc trẻ trung. Ngắm nghía “đá ông Chồng bà Chồng”, nữ sĩ hào hứng phả tình vào đá. Và tình đá vụt hóa tình xuân. Đọc bài thơ này, Xuân Diệu phải ngợi ca rằng bà chúa thơ Nôm còn là nữ nghệ sĩ tạo hình trác tuyệt “Một nhà điêu khắc truyền cả hơi sống, cả tình yêu vào đá, đến nỗi hòn đá cũng ửng hồng lên như có máu chạy đá cứng lắm, nặng lắm, mà nó chẳng nằm chết như đá, nó dãn ra, nó bị cọ mài, nó già dặn tình xuân”Qua bài thơ nữ sĩ hiện lên chẳng những là nữ sĩ tạo hình mà còn tạo tình nữa. Vừa kỳ công và cũng vừa tuyệt thú, bà chúa thơ Nôm đã biến cảm xúc mùa xuân, cái tưởng chừng khó nắm bắt trở thành vật thể gồ ghề góc cạnh, dày dày mảng khối, tươi tắn nhiều sắc màu Đôi lứa như in tờ giấy trắng, Dẫu nghìn năm còn mãi cái xuân xanh. Tình xuân được hữu thể hóa, Có sớm ư? Thời lại có trưa... Vậy mới phơi phới, ngây ngất và hoan lạc. Xót thương thay cho những ai, vì lý do thiên tạo hoặc nhân tạo, không được thụ hưởng hạnh phúc tốt vời của đời sống thế trần, bởi Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu!8. Hoạ NhânVài hàng chữ gấm chạnh niềm châu,Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,Sương pha khói biếc rộn thêm thơ trước viện, nhà khoe gió,Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.==> bài thơ này được Hồ Xuân Hương viết khi bị mẹ cậy người mai mối gả cho thầy lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nhân có người về Hà Tĩnh. Hồ Xuân Hương gửi bài thơ này. Cũng theo ông, thì bài “Ký mộng” của Nguyễn Du là để đáp lại bài thơ Duyên Kỳ NgộNghìn dặm có duyên sự cũng thành,Xin đừng lo lắng hết xuân gang tay họa thơ không dứt,Gần gụi cung dương lá vẫn sẵn bút đề dường chĩnh chện,Trống mang dùi cắp đã phanh không thả lá trôi dòng ngự,10. Hỏi TrăngMột trái trăng thu chín mõm mòm,Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,Ngoài khép đôi cung cánh vẫn mặt kẻ trần đua xói móc,Ngứa gan thằng Cuội đứng lom người bẻ quế rằng ai đó,Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.==> Đại ý bài thơ1-2 Giới thiệu hình ảnh và màu sắc đặc biệt của vầng trăng Vầng trăng bấy giờ là một quả trăng, chín muồi lâu là một khối tròn có cây quế đỏ, đỏ phát ớn.3-4-5-6 Những chi tiết của vầng trăngỞ giữa mặt trăng hình chiếc bích, tròn dẹt nên khuôn nó chưa tròn, mà méo đi. Méo méohình tròn lệch, sai đi với hình chuẩn. Bên ngoài mặt trăng có hai cánh cung khép sâu mình vì người đời đua nhau xói đâm thẳng vào, móc dùng tay tìm kiếm hay lấy vật gì trong lỗ ra. Ở đây, xói móc, nghĩa bóng là châm chọc, bung ra những chuyện riêng tư của người nên thằng Cuội cứ đứng khom lưng.7-8Vậy dám nào, xin hỏi, ai đã là người đã đi bẻ quế?Ở nơi đó, có một người đẹp như Hằng Nga vẫn còn đang mong mỏi, đợi chờ .11. Du cổ tựThầy tớ thong dong dạo cảnh chùaCầm thư lưng túi rượu lưng hồCá khe lắng kệ đầu ngơ ngácChim núi nghe kinh cổ gật gùThen cửa từ bi nêm chật cánhNén hương tế độ cắm đầy lòNhà sư ướm hỏi nhà sư tíPhúc đức nhà ngươi được mấy bồ12. Lỡm Học TròKhéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơLại đây cho chị dạy làm thơOng non ngứa nọc châm hoa rữaDê cỏn buồn sừng húc giậu thưaTrên đây là tổng hợp 12 bài thơ hay nhất của thi sĩ Hồ Xuân Hương. Các bạn có thể tham khảo chi tiết Chuyên mục Tài liệu VnDoc để tham khảo đa dạng các chủ đề thơ ca hay nhất.
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––––– ĐÀM THỊ ĐÀO THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG LUẬN VĂN THẠC LUẬN SĨVĂN NGÔN THẠC NGỮSĨVÀ VĂN VĂN HỌC HÓA VIỆT NAM Thái Nguyên - 2015 Thái Nguyên - 2015 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––––– ĐÀM THỊ ĐÀO THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGÔ GIA VÕ Thái Nguyên - 2015 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học “Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương” với các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác, hoàn toàn là công trình nghiên cứu của tôi. . Tác giả luận văn Đàm Thị Đào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN i Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn - Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái Nguyên. - Các thầy, cô giáo ở Viện Văn học, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt khoá học. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Ngô Gia Võ, người đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình viết luận văn. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Đàm Thị Đào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN ii MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan………………………………………………………………......i Lời cảm ơn…………………………………………………………………....ii Mục lục…………………………………………………………………….....iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 6 4. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................... 6 5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 7 6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 7 7. Cấu trúc luận văn................................................................................................ 8 8. Đóng góp của đề tài............................................................................................ 9 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...........................................................10 Một số khái niệm liên quan đến đề tài ..........................................................10 Thơ tứ tuyệt ................................................................................................10 Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng .....................................................................15 Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội tạo nên hiện tượng Hồ Xuân Hương ...........18 trí Hồ Xuân Hương trong dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng và trong văn học trào phúng thời trung đại ........................................................................20 Quy mô, số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương ...............27 Chƣơng 2. THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG .........................................................30 Hệ thống đề tài ..............................................................................................30 Đối tượng, nội dung trào phúng ....................................................................33 Tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ ...............33 Những vấn đề xã hội ..................................................................................45 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN iii Mục đích, ý nghĩa trào phúng .......................................................................53 Chƣơng 3. THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ..................................................56 Ngôn ngữ trào phúng.....................................................................................56 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian .........56 Ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, tài hoa........................................................62 Nghệ thuật cái “tục” ......................................................................................67 Các ý kiến bàn về vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương .................67 Số lần xuất hiện, trường hợp xuất hiện cái tục...........................................70 Cái tục với ý nghĩa phê phán, châm biếm, đả kích cường quyền và thần quyền phong kiến .................................................................................................73 Cái tục với ý nghĩa khẳng định khát vọng tự nhiên, ca ngợi hạnh phúc trần tục, đòi tự do và giải phóng con người. ...............................................................76 KẾT LUẬN .........................................................................................................80 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................84 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN iv MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Văn học Việt Nam ra đời trong khi văn học Trung Quốc đã có một bề dày phát triển. Tuy nhiên, cha ông ta đã cố gắng vượt qua sự ràng buộc của ngôn ngữ Hán bằng cách tạo ra một văn tự mới chữ Nôm. Từ thể loại thơ Đường luật chữ Hán, ông cha ta đã vận dụng và chuyển hóa thành hình thức sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc là thơ Nôm Đường luật. Việt Nam là quốc gia có vị trí địa lý nằm gần hai cái nôi văn minh lớn của nhân loại Ấn Độ và Trung Quốc. Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông lại càng có ý nghĩa. Ở Việt Nam, từ thế kỷ thứ X trở về sau, nhân tài được lựa chọn qua thi cử ngày càng nhiều. Khoa thi ở các triều đại Lý, Trần, Lê… sĩ tử đều có những bài liên quan đến thơ, mà thơ Đường luật là chính. Bằng con đường như thế, thơ Đường luật xuất hiện ngày càng nhiều trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam. Từ thế kỷ XIII, chữ Nôm đã xuất hiện nhưng theo các tài liệu hiện có phải đến thế kỷ XV, trở thành ngôn ngữ văn học. Thể thơ Đường luật ở Trung Quốc thường gắn liền với những nội dung trang trọng, chính thống theo quan điểm “Thi dĩ ngôn chí” nhưng khi cha ông ta dùng chữ Nôm để sáng tác theo thể thơ này, đã đưa vào đó những vấn đề mới mẻ như nội dung trào phúng, những tình cảm đời thường, bình dị, những vấn đề dân dã của thôn quê… Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi thấy bộ phận thơ Nôm Đường luật trào phúng đã xuất hiện từ sáng tác của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và các tác giả thời Hồng Đức, kéo dài cho đến hết thời kỳ trung đại, tạo thành một dòng chảy riêng biệt, có những đóng góp độc đáo cả về phương diện nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật. Đây là một thể thơ góp phần quan trọng vào sự phát triển của văn học dân tộc. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào chuyên sâu về thơ tứ tuyệt trào phúng. Việc đi sâu vào tìm hiểu hiện tượng Hồ Xuân Hương với dòng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng chính là mục đích của đề tài. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 1 Tứ tuyệt là một thể thơ được coi là “cao diệu” trong thơ Đường đồng thời cũng là mảng thơ thành công nhất của Hồ Xuân Hương. Điều thú vị là, trước Hồ Xuân Hương, rất hiếm tác giả Việt Nam dùng thể thơ tứ tuyệt để trào phúng. Hồ Xuân Hương thì ngược lại. Đây là một sự phát triển mang tính đột biến trong dòng thơ Nôm Đường luật ở nước ta. Hơn nữa, thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương với những giá trị độc đáo cho đến nay vẫn chưa được khảo cứu, đánh giá toàn diện, kỹ càng. Vì vậy, mảng thơ này rất xứng đáng trở thành đối tượng nghiên cứu cho những ai đã từng tâm huyết với thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nói riêng và thơ Nôm Đường luật nói chung. Hồ Xuân Hương đã từng được Xuân Diệu mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”. Sáng tác thơ Nôm của bà đánh dấu quá trình phát triển rực rỡ của thể loại thơ Nôm Đường luật, khẳng định một bước tiến quan trọng của ngôn ngữ thơ ca dân tộc. Và điều đáng chú ý là trong sáng tác của Hồ Xuân Hương, bộ phận trào phúng có vị trí độc đáo và tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nữ sĩ. Đây là một tác giả khá quen thuộc được giảng dạy trong chương trình văn học nhà trường. Do đó, tìm hiểu thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng của Hồ Xuân Hương sẽ có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn đối với người giáo viên văn học. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Những vấn đề liên quan đến Hồ Xuân Hương Cuộc đời, thân thế, sự nghiệp và văn bản tác phẩm Trước Cách mạng tháng Tám, Hồ Xuân Hương được khẳng định là một tác gia văn học, tác giả của nhiều bài thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng. Điều này được khẳng định qua những tác phẩm Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế và văn tài của Nguyễn Văn Hanh, Việt Nam văn học sử yếu và Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm, Giai nhân dị mặc của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nam thi hợp tuyển của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc… Sau Cách mạng, đặc biệt là sau 1954, trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam của nhóm tác giả Lê Trí Viễn, Phan Côn, Đặng Thanh Lê, Phạm Luận, Lê Hoài Nam, Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XVIII – nửa cuối thế kỷ XIX của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 2 Nguyễn Lộc, Lịch sử văn học Việt Nam của nhiều tác giả, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX của nhóm tác giả Đặng Thanh Lê, Phạm Luận, Hoàng Hữu Yên…đều khẳng định rằng có một tác giả Hồ Xuân Hương với những bài thơ Nôm tứ tuyệt. Tuy nhiên, việc chọn những bài thơ Hồ Xuân Hương vẫn chưa có sự thống nhất ở các công trình nghiên cứu. Nghiên cứu về thân thế, cuộc đời và văn bản tác phẩm Hồ Xuân Hương bắt đầu có những biến đổi, phát triển vượt bậc từ khi nhà nghiên cứu văn học Trần Thanh Mại cho đăng một loạt bài trên Tạp chí văn học như Phải chăng Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ chữ Hán, Trở lại vấn đề Hồ Xuân Hương, Bản "Lưu Hương ký" và lai lịch phát hiện của nó,… Sau đó xuất hiện hàng loạt bài của các tác giả khác tiếp tục tranh luận, đi sâu vào vấn đề tiểu sử và văn bản tác phẩm của Hồ Xuân Hương như Tảo Trang, Nam Trân, Đào Thái Tôn,... Đặc biệt chú ý là hai công trình nghiên cứu của tác giả Đào Thái Tôn là Hồ Xuân Hương – từ cội nguồn vào thế tục và Hồ Xuân Hương – tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền thoại dân gian hóa. Trong những bài viết của mình, Đào Thái Tôn đã tổng kết khá hệ thống tất cả những vấn đề có liên quan đến tiểu sử và văn bản thơ Hồ Xuân Hương, đã góp phần khẳng định Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ chữ Hán và lập luận đầy thuyết phục về tiểu sử của bà, đi tới kết luận bà là con của Hồ Sỹ Danh, em của Hồ Sỹ Đống. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một quan điểm thống nhất về văn bản thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương, mỗi tác giả vẫn lựa chọn cho mình một quan điểm khác biệt. Giá trị nội dung tƣ tƣởng trong thơ Hồ Xuân Hƣơng Các công trình nghiên cứu đều khẳng định và đánh giá rất cao giá trị nhân văn của thơ Hồ Xuân Hương, đều tập trung làm nổi bật ý thức chống phong kiến, khát vọng đời sống tự nhiên, giá trị nhân đạo của thi phẩm Hồ Xuân Hương. Tiêu biểu cho các công trình ấy là Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo dục của Văn Tân, phần viết về Hồ Xuân Hương trong Các nhà thơ cổ điển Việt Nam của Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế và văn tài của Nguyễn Văn Hanh, Một bức thư của Chế Lan Viên, Góp thêm một tiếng nói Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 3 trong việc đánh giá thơ Hồ Xuân Hương, hay trong Văn nghệ bình dân Việt Nam của tác giả Trương Tửu… Tuy có những ý kiến đối lập nhau nhưng đều thừa nhận thơ Hồ Xuân Hương có giá trị nội dung tư tưởng đặc sắc, có sức sống lâu bền với thời gian. Giá trị nghệ thuật của thơ Hồ Xuân Hƣơng Nhiều bài viết và công trình nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu giá trị nghệ thuật trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Tài năng nghệ thuật của bà đã được khẳng định và đánh giá rất cao trong nền văn học dận tộc từ xưa đến nay. Tiêu biểu là các công trình Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế và văn tài của Nguyễn Văn Hanh, đến Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm,… Càng về sau, vấn đề nghệ thuật trong thơ bà càng được nghiên cứu nhiều hơn. Trên thực tế, Lê Tâm là người đầu tiên phong cho Hồ Xuân Hương danh hiệu “Bà chúa thơ Nôm” trong Thân thế và thi ca Hồ Xuân Hương – Bà chúa thơ Nôm. Sau đó, bằng năng lực cảm thụ tinh tế, bằng sự hiểu biết sâu sắc văn hóa trung đại và kinh nghiệm sáng tạo thơ của mình, Xuân Diệu đã phân tích và khẳng định Hồ Xuân Hương là một trong “ba thi hào dân tộc” lớn, có vị trí xứng đáng trên thi đàn trung đại. Khi nghiên cứu giá trị nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương, một số tác giả đã đi sâu vào mối quan hệ chặt chẽ giữa thơ Hồ Xuân Hương và văn học dân gian. Tiêu biểu là bài viết của tác giả Đặng Thanh Lê Hồ Xuân Hương – bài thơ "Mời trầu", cộng đồng truyền thống và cá tính sáng tạo trong mối quan hệ văn học dân gian và văn học viết và bài viết của Nguyễn Đăng Na Thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian... Trong các công trình nghiên cứu đó, Nguyễn Đăng Na đã chứng minh được rằng Hồ Xuân Hương đã “nghĩ cái nghĩ dân gian, cảm cái cảm dân gian”[28, Ở một khía cạnh khác, tác giả Đỗ Đức Hiểu trong Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã đi sâu vào khám phá nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương như một thế giới nghệ thuật với hệ thống hình ảnh, hình tượng và những trạng thái, tính chất riêng, độc đáo nói lên một cá tính sáng tạo rất Xuân Hương trong lịch Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 4 sử thơ ca trung đại Việt Nam. Tâm lý sáng tạo của Hồ Xuân Hương cũng đã được Nguyễn Hữu Sơn tìm hiểu trong Tâm lý sáng tạo trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương, trong công trình đó, tác giả đã lý giải tư duy nghệ thuật đặc sắc của một người phụ nữ luôn ý thức về thân phận mình. Trong giới hạn nghiên cứu giá trị nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương, từ đầu thế kỉ XX đến nay, giới nghiên cứu Việt Nam ngày càng đi sâu hơn vào bản chất nghệ thuật phong phú và đặc sắc trong thơ nữ sĩ ở tất cả các phương diện như thể loại, bút pháp, thi pháp, cá tính sáng tạo, tài nghệ ngôn ngữ…. Các thành tựu nghiên cứu đó đều góp phần khẳng định nghệ thuật độc đáo của “Bà chúa thơ Nôm” trong nền thơ dân tộc. Vấn đề trào phúng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng Trong các công trình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương, chúng ta nhận thấy vấn đề trào phúng được coi là một đóng góp quan trọng của nữ sĩ vào lịch sử văn học. Thơ tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương chiếm số lượng nhiều nhất, là bộ phận có giá trị nhân đạo sâu sắc nhất trong thơ Nôm của bà. Vì vậy, hầu như tất cả các bộ lịch sử văn học đều khẳng định bà trong tư cách một nhà thơ trào phúng vào loại xuất sắc nhất của dân tộc. Một trong những tác giả đầu tiên nghiên cứu về Hồ Xuân Hương trong mối quan hệ với dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng Việt Nam là Giáo sư Đặng Thanh Lê. Trong công trình Hồ Xuân Hương và dòng thơ Nôm Đường luật, tác giả “đã đặt những sáng tác của bà trong sự phát triển của “Dòng thơ Nôm Đường luật”, phác họa một số nét cơ bản trong sự vận động của thể loại, đồng thời nêu bật những đóng góp của Hồ Xuân Hương về cảm hứng và biện pháp nghệ thuật” [22, Tác giả Nguyễn Sĩ Đại cũng đã đề cập đến Hồ Xuân Hương ở công trình Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường. Chúng tôi sẽ tiếp cận Hồ Xuân Hương với tư cách một tác gia trào phúng từ góc độ thể loại thơ Nôm Đường luật, đặc biệt là bộ phận thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng để thấy được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của bà đối với sự phát triển của thể loại thơ Nôm Đường luật nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 5 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tập hợp những bài thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương và nghiên cứu đặc điểm của chúng trên hai phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật qua một số vấn đề như đề tài, đối tượng, nội dung, mục đích và thái độ trào phúng; bút pháp và ngôn ngữ nghệ thuật trào phúng; trong quá trình đó có so sánh thơ Hồ Xuân Hương với thơ của các nhà thơ trước. Từ đó, luận văn sẽ đi tới khẳng định vai trò của Hồ Xuân Hương trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Phân tích hệ thống thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương ở khía cạnh nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật qua một số vấn đề như đề tài, đối tượng, nội dung, mục đích, thái độ trào phúng, bút pháp và ngôn ngữ nghệ thuật trào phúng,…Qua đó, luận văn sẽ làm sáng tỏ tài năng nghệ thuật và cá tính sáng tạo độc đáo của bà, tạo ra bước phát triển mới về chất lượng nghệ thuật trong dòng thơ Nôm Đường luật Việt Nam. Trên cơ sở tập hợp và phân tích những tác phẩm thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng của Hồ Xuân Hương, luận văn sẽ góp phần khẳng định được vị thế độc đáo của Hồ Xuân Hương trong tiến trình phát triển của thơ ca dân tộc. Hồ Xuân Hương là người mở đầu cho thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Việt Nam và đã đưa thể thơ này đến đỉnh cao về giá trị tư tưởng cũng như giá trị nghệ thuật. 4. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu trọng tâm của luận văn là thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương có rất nhiều văn bản, như Xuân Hương thi tập, XNB Xuân Lan, 1913, Hồ Xuân Hương thơ và đời của Lữ Huy Nguyên và hàng trăm các văn bản khác. Tuy nhiên, chúng tôi chọn văn bản Thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo dục, H, 1982 làm văn bản nghiên cứu chính. Đây là văn bản chọn các bài thơ theo “phong cách nghệ thuật Hồ Xuân Hương”, gồm 40 bài. Văn bản này của Nguyễn Lộc có số lượng không quá ít nhưng cũng không quá nhiều, lại là những bài thơ khá phổ biến, xuất hiện ở nhiều tuyển tập thơ Hồ Xuân Hương và đã tồn tại hơn 30 năm nay, được giới Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 6 nghiên cứu văn học thừa nhận và sử dụng khá rộng rãi. Tất nhiên, trong quá trình tìm hiểu, rất có thể chúng tôi vẫn phải mở rộng những liên hệ của mình ra các văn bản khác để kết quả nghiên cứu có thêm sức thuyết phục. Ngoài ra có sự so sánh với một số văn bản khác như Xuân Hương thi tập, NXB Xuân Lan, 1913; Quốc văn tùng ký của Hải Châu Tử Nguyễn Văn San; Hồ Xuân Hương thơ và đời của Lữ Huy Nguyên; Hồ Xuân Hương – tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền thoại dân gian hóa của Đào Thái Tôn… 5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Về phạm vi nghiên cứu, luận văn xác định một số khái niệm thơ tứ tuyệt, thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng… là những khái niệm có vị trí quan trọng trong việc xử lý đề tài. Trong khi nghiên cứu thơ Nôm Đường luật trào phúng nói chung, thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng, cần phân biệt được hai vấn đề về mức độ trào phúng là yếu tố trào phúng và tác phẩm trào phúng. Trên cơ sở đó, người viết sẽ nghiên cứu thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương ở khía cạnh nội dung với hệ thống đề tài; đối tượng, nội dung và mục đích, ý nghĩa trào phúng và khía cạnh nghệ thuật với ngôn ngữ trào phúng; nghệ thuật cái tục. 6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phƣơng pháp thống kê, phân loại Phương pháp này sẽ cho người viết một cái nhìn tổng thể về số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương. Việc thống kê, phân loại này càng đầy đủ, chi tiết, khoa học, càng tạo ra những cơ sở xác thực cho các luận điểm của đề tài. Trên cơ sở thống kê, người viết xếp riêng những bài thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng để làm cứ liệu phân tích, đánh giá. Trong quá trình thống kê phân loại, người viết phải tham khảo, học tập ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu để việc khẳng định các bài thơ tứ tuyệt trào phúng thêm chính xác. Tuy nhiên, quan điểm về thơ tứ tuyệt trào phúng rất đa dạng nên có thể thống kê của chúng tôi sẽ không tránh khỏi những sai sót. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 7 Đơn vị thống kê sẽ là những bài thơ có yếu tố trào phúng, người viết sẽ chỉ ra những câu thơ trào phúng để tiện theo dõi và đánh giá. Còn cả bài thơ được viết với mục đích trào phúng, xây dựng được một hình tượng trào phúng hoàn chỉnh thì đương nhiên có mặt trong bản thống kê, phân loại của chúng tôi. Thống kê, phân loại những bài thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương theo tiêu chí và nội dung nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cho quá trình nghiên cứu có cơ sở dữ liệu về văn bản, tránh những khái quát mang tính võ đoán, suy biện. Phƣơng pháp phân tích tổng hợp Đánh giá khảo sát toàn bộ những tư liệu thống kê, phân tích các dẫn chứng, rút ra những kết luận khoa học về thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng. Với việc phân tích này, người viết tiến hành đồng thời cả hai phương diện phân tích đặc điểm nội dung tư tưởng và phân tích hình thức nghệ thuật của bài thơ, câu thơ. Sau khi phân tích, chỉ ra những đặc điểm của từng tác giả, luận văn sẽ tổng hợp và đánh giá khái quát vấn đề, rút ra những luận điểm khoa học chính. Phƣơng pháp so sánh đối chiếu Luận văn sẽ tiến hành so sánh đối chiếu trên các phương diện sau + So sánh thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương với thơ Nôm Đường luật trữ tình của bà. + So sánh phong cách nghệ thuật, đóng góp về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương với các tác giả khác, đặc biệt là các tác giả trước đó như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm. + So sánh đặc trưng thể loại thơ Hồ Xuân Hương với các yếu tố và thể loại trào phúng trong văn học dân gian. 7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương Chương 1 Những vấn đề chung. Một số khái niệm liên quan đến đề tài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 8 Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội tạo nên hiện tượng Hồ Xuân Hương Vị trí Hồ Xuân Hương trong dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng và trong văn học trào phúng thời trung đại Quy mô, số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương Chương 2 Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nhìn từ phương diện nội dung. Hệ thống đề tài Đối tượng, nội dung trào phúng Mục đích, ý nghĩa trào phúng Chương 3 Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nhìn từ phương diện nghệ thuật Ngôn ngữ trào phúng Nghệ thuật cái “tục” 8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI + Đề tài được hoàn thành sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương, một mảng thơ quan trọng trong việc khẳng định cá tính sáng tạo và vị thế Hồ Xuân Hương trong tiến trình thơ ca dân tộc. + Trên cơ sở phân tích giá trị nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương, luận văn sẽ trở thành một tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên và giáo viên văn học phổ thông. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 9 PHẦN NỘI DUNG CHÍNH Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG Thơ tứ tuyệt ra đời từ bao giờ? Hiện nay vẫn có nhiều ý kiến bàn luận về vấn đề này. Có nhiều ý kiến cho rằng thơ tứ tuyệt có mầm mống từ Kinh thi ra đời cách đây năm, vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, có một số ý kiến lại cho rằng thơ tứ tuyệt xuất hiện từ thời Lục Triều 281 – 618. Tứ tuyệt không những đạt được thành tựu rực rỡ ở đời Đường mà còn có sinh mệnh lâu dài vào bậc nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc cũng như trong lịch sử văn học một số nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Ở những nước khác, tuy không có tên gọi là “tứ tuyệt” song cũng có những loại hình tương tự. Bởi vậy, việc nêu ra những đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường không chỉ góp phần làm sáng tỏ thêm vẻ đẹp của một hiện tượng độc đáo của thơ ca Trung Quốc mà còn cung cấp được những nhận định, tư liệu có thể làm căn cứ so sánh, tham khảo để tìm hiểu thêm những hiện tượng cùng loại hình, để xử lý một số vấn đề của lý luận và thực tiễn của thơ ca hiện nay. “Tứ tuyệt! Tứ tuyệt là một thể thơ rất khó, phải tập trung, hàm súc và cần có một sáng tạo gì như là một sự bất ngờ, một uẩn khúc, trong bốn câu” [7, Do hạn chế về số chữ, nhất định thơ Nôm tứ tuyệt nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng không thể đi vào miêu tả chi tiết hiện thực, không thể trình bày sự việc một cách có đầu có cuối theo trình tự thời gian. Thiên về khái quát, nó là một tất yếu. Nhưng sự khái quát không thể bắt đầu từ chủ quan. Vì vậy, thơ tứ tuyệt ngoài lựa chọn loại sự vật để phản ánh còn phải chọn nét tiêu biểu nhất mang tính bản chất của sự vật đó. Hiện thực trong thơ tứ tuyệt phải bảo đảm được tính chất của một tiểu vũ trụ. Một số khái niệm liên quan đến đề tài Thơ tứ tuyệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 10 Ở Việt Nam chúng ta, từ khi có văn học viết là đã có ngay thơ tứ tuyệt. Ban đầu, chúng ta phải sáng tác bằng chữ Hán cho nên thơ tứ tuyệt luật Đường đã xuất hiện ngay từ thế kỷ X. Khái niệm thơ tứ tuyệt vì vậy cũng đã được nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam quan tâm. Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong cuốn Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, nghĩa chữ “tứ tuyệt” ở đây gồm 4 câu cắt ra từ một bài bát cú. Có bốn cách cắt + Cắt bốn câu trên, thành ra bài thơ ba vần, hai câu trên không đối nhau, hai câu dưới đối nhau. Ví dụ XUÂN Khí trời ấm áp đượm hơi dương Thấp thoáng lâu dài vẻ ác vàng Rèm liễu líu lo oanh hót hót gió, Giậu hoa phấp phới bướm chân hương. Khuyết danh – Phỏng dịch thơ chữ Hán của bà Ngô Chi Lan + Cắt bốn câu giữa, thành ra bài thơ hai vần, bốn câu đều đối nhau. Ví dụ KHI TẦU CẬP BẾN Gió đưa dương liễu cành cành nguyệt Cụm tỏa ngô đồng lá lá sương Thuyền mọn năm canh người bãi Hán Dịch dài một tiếng khách Tầm dương. Phan Thanh Giản + Cắt hai câu dưới, thành ra bài thơ hai vần, hai câu đầu đối nhau, hai câu dưới không đối. Ví dụ ĐỜI NGƢỜI Người hết danh không hết Đời còn việc vẫn còn Tội gì lo tính quẫn, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 11 Lập những cuộc con con. Khuyết danh + Cắt hai câu đầu, hai câu cuối, thành ra bài thơ ba vần, cả bốn câu không đối. Ví dụ TRỜI NÓI Cao cao muôn trượng ấy là tao Dẫu pháo thăng thiên chả tới nào Nhắn nhủ dưới trần cho chúng biết Tháng ba, tháng tám tớ mưa rào. Nguyễn Khuyến Giáo sư Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu khẳng định “Tứ nghĩa là bốn, tuyệt nghĩa là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong bài bát cú mà thành”. Rồi ông dẫn ra năm cách ngắt khác nhau + Ngắt bốn câu trên Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường Tay ngọc lăn đưa thoi nhật nguyệt Gót vàng dậm đạp máy âm dương. Lê Thánh Tông + Ngắt bốn câu dưới Vắt vẻo sườn non Trao Lơ thơ mấy ngọn chùa Hỏi ai là chủ đó Có bản tớ xin mua. Vô danh + Ngắt hai câu đầu, hai câu cuối Những lúc say sưa cũng muốn chừa Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa Hay ưa nên nỗi không chừa được Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa. Nguyễn Khuyến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 12 +Ngắt bốn câu giữa Lởm chởm gừng vài khóm Lơ thơ tỏi mấy hàng Vẻ chi là cảnh mọn Mà cũng đến tang thương. Nguyễn Gia Thiều + Ngắt câu 1+ 2 và 5 + 6 Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi Tép miệng năm ba con kiến gió Nghiến răng chuyển động bốn phương trời. Lê Thánh Tông Tác giả Trần Trọng Kim và Trần Đình Sử cũng theo quan điểm này. Giáo sư Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể loại cho rằng … “Như vậy, thơ Đường luật hoặc cũng gọi một cách khái quát, thơ cách luật, là thể thơ được đặt ra từ đời Đường…có ba loại ngũ ngôn, lục ngôn và thất ngôn. Thơ cách luật chia làm ba thể thể tiểu luật gọi là tuyệt cú Việt Nam gọi là tứ tuyệt,…thể luật thi gọi là bát cú…” [31, Hai ông cũng đã giải thích thêm về thơ tứ tuyệt như sau + Tuyệt có nghĩa là cắt ra từ bài bát cú. + Tuyệt cũng là cắt, là đứt, nhưng là đứt câu, dừng bút để trọn ý cho một bài, sau khi viết câu thứ tư. Bởi vì một câu chưa thành thơ; hai câu mới thành một vế đối liên, ít nhất bốn câu mới có vần, khi đó mới thành một bài thơ. Theo nhà biên dịch thơ Đường, Trần Trọng Kim “Thơ tuyệt cú là lối thơ làm bốn câu hai ba vần…” [18, Theo Đào Thái Sơn trong Khái luật về thơ tứ tuyệt thì cách hiểu của các vị trên đây về thơ tứ tuyệt coi như là cơ bản được nhiều người chấp nhận nhất. Bên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 13 cạnh đó thì một số người lại giải thích bằng một cách hiểu khác. Theo Bùi Kỷ viết trong Quốc văn cụ thể “Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một vị trí đặc biệt. Chỉ trong bốn câu mà thiền thâm, ẩn hiển, chinh kỳ, khởi phục đủ cả cho nên gọi là tuyệt” [20, Còn nhà nghiên cứu Lạc Nam Phan Văn Nhiễm trong Tìm hiểu các thể thơ “Thơ bốn câu gọi là tứ tuyệt, người Trung Quốc gọi là tuyệt cú, tức là bài thơ hay tuyệt vời, vì chỉ có bốn câu 20 từ hoặc 28 từ mà nói lên được đầy đủ ý tứ của một đề tài theo đúng luật lệ của thơ Đường”[29, Có thể nói các nhà nghiên cứu ai cũng có lý do cho cách phân tích biện giải của mình. Điều đó càng chứng tỏ sự phong phú, phức tạp và rất kỳ diệu của thơ tứ tuyệt. Nếu theo cách hiểu thứ nhất thì ta có một số cách cắt bốn câu của một bài bát cú thành một bài tứ tuyệt theo niêm luật của một bài bát cú. Nếu hiểu thơ tứ tuyệt theo cách hiểu thứ hai và mở rộng thêm thì một bài thơ không dứt khoát phải làm theo cổ tuyệt hay luật tuyệt mới gọi là Nôm tứ tuyệt, mà chỉ cần một bài thơ Nôm ngắn có bốn câu làm theo thể thơ gì cũng được, miễn hay là tứ tuyệt. Cách hiểu này không phải không có lý mà còn có sự thông thoáng, mở rộng. Một bài thơ tứ tuyệt hay phải lựa chọn được những khoảnh khắc dồn nén của đời sống tinh thần, những hiện thực của tâm trạng, những phút thăng hoa của tâm linh…Phải dồn nén biểu cảm để tính khái quát của triết lý đạt tới cao độ. Còn theo như PGS. TS Lê Lưu Oanh và Ths Định Thị Nguyệt trong Thơ tứ tuyệt trong truyền thống văn hóa phương Đông thì thơ tứ tuyệt là một thể loại kết tinh được khá nhiều nét độc đáo của những giá trị tinh thần văn hóa phương Đông. Tứ tuyệt là một chỉnh thể vi mô toàn vẹn, số 4 trong quan niệm của nhân loại là một con số hoàn thiện nhất. Quy luật đối lập âm dương, đảm bảo cân bằng âm dương qua việc phối hợp các thanh bằng – trắc, các nhịp chẵn lẻ tạo thành một cấu trúc có quy luật với những quan hệ nội tại chặt chẽ, làm một bài tứ tuyệt dù rất nhỏ nhưng đảm bảo là một cấu trúc hình thức hoàn chỉnh cân xứng, nhịp nhàng, chặt chẽ, khó phá vỡ [36, Chính vì con số 4 chứa đựng được cả vũ trụ nên bài thơ tứ tuyệt được coi là một tổng thể toàn vẹn mang tính Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 14
Ngày đăng 18/12/2015, 1131 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Lí chọn đề tài Hồ Xuân Hương tượng văn học thấy văn học Việt Nam Không tài hoa xuất chúng mà thơ văn lẫn đời bà làm tốn không nhiều giấy mực giới nghiên cứu Giáo sư Lê Đình Kỵ bàn Hồ Xuân Hương có câu nhận xét sau “Thơ Xuân Hương vốn xa lạ với lối đại ngôn kiểu đó, mà bình dị, tự nhiên - khí mà huyết khí, với khí chất riêng mình” Chính mang cốt cách riêng, khí khái riêng mà ẩn chứa thơ Xuân Hương sức sống tiềm tàng mãnh liệt, chực chờ tuôn trào câu chữ thứ tạo nên cốt cách riêng ấy, nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Mục đích nghiên cứu Việc tìm hiểu kỹ nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương giúp hình dung rõ nét người cá tính thơ bà, đồng thời hiểu lý thơ văn Hồ Xuân Hương lại có giá trị to lớn đến văn học nước nhà Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu đề tài nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu đề tài xoay quanh tác phẩm thơ Hồ Xuân Hương Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp liệt kê Phương pháp so sánh… NỘI DUNG CHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khái niệm “Trào phúng” “Trào phúng” thân từ Hán - Việt Nếu tách riêng chữ “trào” cười cợt, chế giễu; “phúng” lời bóng gió để châm biếm, đả kích Nghệ thuật trào phúng cách thức dùng ngôn từ ví von, bóng gió để châm biếm, đả kích thói hư tật xấu trái với lương tri, đạo đức xã hội Người ta thường chia trào phúng thành ba loại chính loại khôi hài, cười cợt; loạt phê phán, đả kích loại châm biếm chế giễu Đặc trưng thơ trào phúng yếu tố gây cười, yếu tố hài hước văn thể mặt nội dung lẫn hình thức ta cảm nhận rõ điều thơ Hồ Xuân Hương Đối tượng trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương nhìn ung nhọt xã hội đưa vào thơ mình, tiếng chửi bà cất lên đầy khiến người nghe phải cười thích thú Đối tượng lên án bà đa dạng có đặc điểm chung tên “bụng đầy kinh sách” hay hạng “quyền cao chức trọng” lúc cao Đó tên công tử nhà giàu hợm hĩnh, ham ghẹo gái lại võ vẽ làm thơ, lại thích đề thơ trước cửa đền, chùa khoe mẽ “Dắt díu lên đến cửa chiền, Cũng đòi học nói, nói không nên Ai nhắn bảo phường lòi tói, Muốn sống, đem vôi quét trả đền” Bọn Đồ Dốt Bà truy tận gốc lũ hại dân, hại nước không chừa ai, kể lũ vua chúa , quan lại, hiền nhân quân tử cho có sứ mạng truyền bá, hành xử đạo lí thánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội người thật chúng không hám danh, hám lợi mà đam mê tửu sắc “Hồng hồng má phấn duyên cậy Chúa dấu vua yêu này” Vịnh quạt Nếu với tầng lớp vua chúa, quan lại bà chửi thẳng vào thói háo sắc thích “giả vờ” với đám quan thị, bà đánh vào sống trái lẽ tự nhiên bọn chúng “Quan thị” Ngoài ra, sư sãi đối tượng nhắc đến không lần thơ Xuân Hương Trong xã hội rối ren, nhà chùa không giữ vẻ trang nghiêm, thành kính vốn có mà thay vào tên sư vô lại, lợi dụng nơi tu hành để thực hành vi giả dối đồi bại “Sư hổ mang”, “Chùa Quán Sứ”, “Cái kiếp tu hành”… Tuy nhắc đến nhiều trọng tâm “anh hùng quân tử”, Xuân Hương không bỏ qua tên đàn ông bạc tình bạc nghĩa, xem tình cảm cô gái ngây thơ trò chơi để “no xôi chán chè”, chúng thẳng tay rũ bỏ “Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, Phận liễu đà nảy nét ngang Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? Mảnh tình khối thiếp xin mang” Không chồng mà chửa Trào phúng thơ Xuân Hương thể nhiều cung bậc cảm xúc khác Hả có, thích thú có đắng cay có, chua xót nhiều Tiếng cười mang ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa phản kháng mạnh mẽ, liệt không trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương đậm đà chất trữ tình đặc sắc CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khắc họa hình tượng nhân vật, chủ thể điệu bộ, cử chỉ, tính cách Để góp phần tạo nên thành công việc xây dựng nghệ thuật trào phúng, không nhắc đến tài khắc họa hình tượng nhân vật Hồ Xuân Hương Bà phác nên nét riêng cho nhân vật cách giản đơn, dung dị mà chẳng cần miêu tả ngoại hình từ ngữ, câu thơ dài dòng Bà khéo léo thổi hồn vào nhân vật thông qua biểu lộ thái độ thân “Khéo khéo đâu lũ ngẩn ngơ Lại cho chị dạy làm thơ” Ong non ngứa nọc châm hoa rữa Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa!” Lũ ngẩn ngơ Trong “Giai thoại văn học Việt Nam” có ghi chép, ngày kia, Hồ Xuân Hương thăm chùa Trấn Quốc về, bà lững thững bên bờ hồ Tây có vài tên thầy khóa rảo theo sau, giở giọng chữ nghĩa hòng ghẹo Xuân Hương lặng thinh không nói, đến nghe thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy, không chịu được, bà quay lại đọc dồn cho chúng cho thơ Chỉ với từ “ngẩn ngơ” câu phác họa toàn dáng vẻ tên văn sĩ nửa mùa hay Chúng mang tiếng chữ nghĩa đầy chẳng khác “lũ ngẩn ngơ”, gì, để cô gái trẻ phải “dạy” lại Hồ Xuân Hương gọi chúng “dê cỏn” dê con, dê dê nhỏ, ngây thơ, “dê cỏn” hạng dê lớn, ngang ngược, tự đắc Cách gọi “ong non”, “dê cỏn”, “ngứa nọc”, “buồn sừng” thể thành công chất ti toe anh nửa trẻ nửa người lớn Bọn chúng kẻ “ngựa non háu đá”, hợm hĩnh thực chất chút học thức thật Có thể nói, thú vị, hóm hỉnh Xuân Hương khiến bật cười, cười thích thú xen lẫn nể phục nữ nhi, tài nghệ văn chương bà hẳn thứ mang danh “thầy” nửa mùa Hay “Sư hổ mang”, vị sư thầy đáng kính, đạo mạo hay nghĩ tới nhắc đến chùa chiền, Phật giáo không thấy thơ bà nữa “ Chẳng phải Ngô, ta, Đầu trọc lốc, áo không tà Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm, Vải núp sau lưng sáu bảy bà Khi cảnh, tiu, chũm choẹ, Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi Tu lâu có lẽ lên Sư cụ, Ngất nghểu sen mà.” Sư hổ mang Đầu trọc đỗi bình thường, sư mà đầu chẳng trọc? Thế kèm với từ “lóc” thành “trọc lóc”, “áo không tà”, chân dung nhà sư lên đầy vẻ thấy mỉa mai, đùa cợt Ban ngày bao nhà sư khác, cúng dường,“oản dâng” Phật bình thường, mà ẩn sau đó, “sắc dục” quẩn quanh , vây hãm lấy nhà sư Không thế, chùa chiền vốn chốn tôn nghiêm, thiêng liêng, mà sư với vãi chơi trò chơi đám nít?! Ở chùa có chuông, mõ mà lại có đủ thứ nhạc khí phường bát âm "Khi cảnh, tiu, chũm chọe" Và tụng kinh niệm Phật mà muốn đổi giọng đổi "Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha" chẳng khác diễn tuồng! Chỉ vài hình ảnh cử chỉ, giọng điệu toát hình tượng nhà sư mà người đời kính trọng trở nên biến chất mặt đạo đức đến mức xã hội lúc Cách khắc họa nhân vật Hồ Xuân Hương vô đơn giản lại toát lên hương vị, đặc trưng, điển hình cho phong cách thơ bà Chỉ vài nét chấm phá, hình tượng người lên với đầy đủ đặc điểm, tính chất mà Xuân Hương muốn đề cập đến Đó điều mà nhà thơ thực được, ta thấy rõ nét nhiều thơ “bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương Cách sử dụng từ ngữ Nếu so sánh kiểu lựa chọn từ ngữ Bà Huyện Thanh Quan với cách sử dụng từ ngữ Hồ Xuân Hương, ta thấy có đối nghịch rõ nét hai người Cùng miêu tả đèo câu chữ Bà Huyện Thanh Quan sang trọng, mực thước mang phóng cách thơ văn “quý tộc” “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ chen lá, đá chen hoa Lom khom núi, tiều vài Lác đác bên sông, chợ nhà” Qua Đèo Ngang Trong đó, Đèo Ba Dội Hồ Xuân Hương vô gần gũi, thân thuộc nhiều Nếu đứng phương diện ý nghĩa nhã mà so sánh thơ Bà Huyện Thanh Quan hình đen trắng phẳng Đèo Ba Dội tranh ba chiều sống động đầy màu sắc âm Xuân Hương không chiêm nghiệm sống từ khoảng cách xa mà trái lại bà tận hưởng tất âm thanh, màu sắc, hình khối… vạn vật trạng thái sung mãn Nữ thi sĩ tài hoa khai thác triệt để khả tu từ phong phú ngôn ngữ dân tộc hết, nghệ thuật trào phúng bà mài giũa bén nhọn Tài mặt ngôn ngữ không biểu lộ thông qua cách thức miêu tả cảnh vật thiên nhiên, mà muốn trào lộng đó, bà khiến chúng, có bậc “anh hùng”, “quân tử”, “văn nhân” hay chí bậc “vua”, “chúa” phải vẻ thiêng liêng, đạo mạo, bà bóc trần kẻ giả dối mà khoác lên thân áo đạo đức cao sang Cả tiếng xưng hô với thần thánh “đây”, “đấy” bà đứng trước Đền Sầm Nghi Đống nghe đầy vẻ kể cả, xách mé “Ví đổi phận làm trai được, Thì anh hùng há nhiêu!” Đền Sầm Nghi Đống Không thế, việc sáng tạo nhiều từ ngữ lạ, cách thức dùng “Xuân Hương” Những từ ngữ sắc nhọn đậm chất liên tưởng “cửa son”, “bậc đá”, “lún phún”, “nòng nọc”, “lỗ, hang”, “tùm hum”, “mân mó”,… làm tác động mạnh lên thần kinh cảm giác người đọc, buộc người đọc không muốn hình dung phải hình dung Trong thơ Hồ Xuân Hương tràn ngập động từ mạnh, có từ thân động từ mạnh có lẽ nữ thi sĩ chưa vừa ý, bà gắn thêm vào phó từ bổ nghĩa mà ta thấy Tự tình III “Xiên ngang mặt đất rêu đám Đâm toạc chân mây đá hòn.” Tự tình III Từ “ngang” làm cho động từ xiên trở nên cứng chắc, khỏe động tác trở nên “ngọt” hơn, “toạc” biến động từ trở nên mạnh mẽ hết, đâm vút lên chỉa thẳng vào chân mây, làm rách toạc bầu trời, mà ngăn cản Sự thêm thắt đầy sáng tạo tạo nên chất mạnh mẽ thơ Hồ Xuân Hương Có lẽ đặc biệt thơ Hồ Xuân Hương cách sử dụng từ láy lạ Những từ láy có tác dụng diễn tả độ sâu, độ nhoè, luồn lách, chông chênh, cử động nhanh mạnh “hỏm hòm hom”, “trắng phau phau”, “đỏ lòm lom”, … Chỉ từ mà diễn tả chiều không gian, rộng sâu hun hút “Bày đặt khéo khéo phòm Nứt lỗ hỏm hòm hom” Động Hương Tích Hay “Trời đất sinh đá chòm Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom” Hang Cắc Cớ Để diễn tả độ sâu, Xuân Hương dùng hai lần từ “hỏm hòm hom” hai “Hang Cắc Cớ” “Động Hương Tích” Không phải “hun hút”, “thăm thẳm” mà “hỏm hòm ho,”âm “o” tròn môi kết hợp với vần “om” làm mở rộng thêm độ sâu tận hang, đồng thời cho thấy chiều rộng lẫn chiều cao hang động, kích thích trí tò mò người Một từ mà diễn đạt đa chiều không gian đó, nhìn lại dòng thơ thời đại đổ sau, ta khó mà kiếm câu thơ đặc biệt đến Thơ Huy Cận tài tình không tránh khỏi dùng nhiều từ không gian để dẫn giải chiều không gian “Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu” Tràng giang Xuân Hương không cần “xuống”, “lên”, “sâu”, chẳng cần “dài”, “rộng” mà từ khiến người đọc hình dung rõ ba chiều không gian vật mà bà muốn nói đến Trong thơ Hồ Xuân Hương sáng tác, từ láy sử dụng với tần suất cao, bao gồm từ láy gợi âm thanh “tỉ tì ti”, “hi ha”, “hu hơ”, “vo ve”, …, từ láy gợi cảm giác, xúc giác “xù xì”, “toen hoẻn”, “lam nham”,…, từ gợi tư vận động “cheo leo”, “vắt vẻo”, “lom khom”, ngất nghểu,… hay từ tượng gây tiếng động khua lắc cắc, vỗ long bong, vỗ phập phòm, rơi thánh thót, rơi lõm bõm… Ngay từ láy tượng hình hóa nội tâm nhân vật trữ tình “Tự tình” có nét nghĩa vận động “nổi nênh”, “lênh đênh”, “lai láng”, …đều gợi trôi nổi, chơi vơi Thơ Xuân Hương thực cá tính mà không nhà thơ bắt chước Bà đưa ngữ vào thơ cách tự nhiên “tí con”, “lại đây”, “muốn sống”… kể tiếng chửi “bá ngọ”, “chém cha”, “cha kiếp”, “lũ ngẩn ngơ”,… mang đậm đặc trưng dân tộc Không trau chuốt, tô vẽ, chất bình dân mộc mạc ngấm sâu Hồ Xuân Hương tạo nên tiếng cười thu hút, gần gũi đại chúng Lê Hoài Nam viết "Hồ Xuân Hương" in Nghĩ thơ Hồ Xuân Hương Nxb GD 1998 nhận xét "Xuân Hương có vốn ngôn ngữ phong phú, xác, đồng thời độc đáo Điều chứng tỏ Hồ Xuân Hương nắm vững ngôn ngữ dân tộc, mà biểu cá tính mạnh mẽ Xuân Hương Có tiếng hỏm hòm hom, trơ toen hoẻn, chín mõm mòm, đỏ lòm lom, sáng banh, trưa trật phải người có lĩnh vững vàng Xuân Hương đưa vào văn học, vào thi ca Nói chung ngôn ngữ Xuân Hương có sức biểu mạnh, xúc tích, hình ảnh sinh động, nói tiếng đắc tiếng" Cách sử dụng từ ngữ đầy tính gợi sinh động cách thức góp phần tạo nên tiếng cười cho thơ văn Hồ Xuân Hương Không bình lặng mà loạn, văn thơ Xuân Hương giống tính cách người bà, có vài trăm, vài nghìn năm sau nữa, làm “điêu đứng” giới thơ văn “Tính dục” thơ Hồ Xuân Hương Không tài tình cách khắc họa, xây dựng nhân vật sử dụng từ ngữ độc đáo, “tính dục” thơ Hồ Xuân Hương thứ góp phần xây dựng thành công nghệ thuật trào phúng Đã có nhiều ý kiến bàn cãi thơ Hồ Xuân Hương nhiều lời nhận định đưa Liệu thơ bà có hay không tồn yếu tố “dâm” “tục”? Tuy thế, có điều mà không phủ nhận rằng, ẩn sâu câu chữ thơ bà đỗi đặc biệt để nhận nó, tiếng cười bật cách vô tự nhiên Hồ Xuân Hương khéo léo lồng ghép ý tứ “thầm kín” lớp bề “thanh tao” “Một đèo, đèo lại đèo Khen khéo tạc cảnh cheo leo Cửa son đỏ loét tùm hum Hòn đá xanh rì lún phún rêu” Đèo Ba Dội Đọc thơ ta thấy rõ Hồ Xuân Hương miêu tả vẻ đẹp Đèo Ba Dội Một đèo Ba Dội với cỏ mọc bừa bãi, bước chân lên đèo thấy đất đỏ chân, hang động màu đỏ chẳng có khiến ta phải phân vân, lí giải dòng thơ bà góc độ phồn thực, cảm thấy thú vị hình ảnh tưởng chừng chân thực lại mang tầng nghĩa sâu xa, sống động đến kì lạ Nói mà không nói, tả mà không tả mà để người đọc tự khơi dậy trí tưởng tượng Bả không nói toạc điều thầm kín 10 buồng the gác kín mà thông qua biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửi gắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên Trong thời đại Nho giáo phong kiến khắt khe, cô gái Hồ Xuân Hương không tự sống thật với tình yêu, hôn nhân, mà ngược lại phải chịu cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính thế, thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu Hồ Xuân Hương sáng tác nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tình cảm, hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời phương tiện để đả kích tầng lớp thống trị mục nát Hay thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương khéo léo đến mức khiến hình dung rõ ràng từ việc dựng đu cảnh chơi đu trai, gái thời xưa. “Bốn cột khen khéo khéo trồng Người lên đánh kẻ ngồi trông Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới Hai hàng chân ngọc duỗi song song Chơi xuân có biết xuân tá Cọc nhổ lỗ bỏ không !” Đánh đu Sự khéo léo, nhịp nhàng cặp từ trai – gái, đu - uốn, khom khom cật ngửa ngửa lòng không gợi sức hút mặt thẩm mỹ mà thông qua đó, ta cảm nhận niềm vui đôi trai gái tham gia trò chơi đánh đu lễ hội làng quê Đặc biệt từ “cật” câu luận danh từ phận thể đứng sau từ láy “khom khom” thường hiểu động từ, vần “at” trắc cao âm gật, bật, lật tạo cảm giác hành động, nhịp nhanh, liên tục cho thấy hào hứng chơi đu Kông thế, hình ảnh “hai hàng chân ngọc” thi 11 sĩ phác họa sống động mà không bút vẽ họa sĩ làm Làm có vẽ nên tranh đôi hàng chân co duỗi nhịp nhàng đến thế? Cái chỗ “đánh đu” mà lại đánh đu Một thơ với nhiều lớp nghĩa kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với đa tầng nhiều lớp nghĩa, thấy rõ tài người phụ nữ tài sắc vẹn toàn Tính “dục” thơ Hồ Xuân Hương dùng để đả kích tên hiền nhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng Mang danh thế, thực chất, nhìn thấy vẻ đẹp, thân thể “thiếu nữ ngủ ngày” “Đôi gò Bồng Đảo hương ngậm Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông” thì “Quân tử dùng dằng chẳng dứt Đi dở không xong” Thiếu nữ ngủ ngày Chỉ từ láy “dùng dằng” đủ để lột tả phân vân, tranh đầu nội tâm dội nên hay nên ở? Đi tiếc lỡ dịp may lạ lùng, chiêm ngưỡng thân ngọc ngà nằm chõng ngàn năm có Ở không xong lỡ có người trông thấy, cô gái tỉnh lại, tiếng lành đồn xa chịu chê cười Và cuối thơ, người ta chàng quân tử định “đi” hay “ở” đời thường đàn ông ngồn ngộn kìm chế Ta bật cười trước băn khoăn anh ta, nhìn muốn lại, mà lại không thể, muốn mà lại chẳng Ôi oăm thay! Biện pháp tu từ Một biện pháp tu từ sử dụng phổ biến thơ Hồ Xuân Hương biện pháp nói lái Nói lái biện pháp tu từ dùng cách đánh tráo phụ âm đầu, vần điệu hai hay nhiều âm tiết để tạo nên lượng ngữ nghĩa bất ngờ, nhằm mục đích châm biếm, đùa vui ây hình thức chơi chữ đặc biệt 12 ngôn ngữ phân tiết tiếng Việt có từ lâu đời thường thấy văn học dân gian Nó tồn câu ca dao, tục ngữ câu hát người xưa “Con cá đối nằm cối đá Con mèo đuôi cụt năm mục đuôi kèo” Hay Cam sành nhỏ ương Ngọt mật đường nhắm lớ anh Thanh ương tuổi mong chờ Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà Ca dao Qua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành biện pháp nghệ thuật đặc trưng thơ bà Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm từ ngữ bà mang nhiều tầng nghĩa phong phú, người ta chiêm nghiệm ra, tiếng cười phá lên đầy thú vị sảng khoái, người ta cảm thấy tâm đắc khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đà chất nghệ thuật tác phẩm bà “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Làm chi chút tẻo tèo teo Thuyền từ muốn Tây Trúc Trái gió phải lộn lèo” Sư hoạnh dâm Xét bề mặt ngữ nghĩa từ có ý nghĩa, tạo nên nội dung thống nhất, hoàn chỉnh “Lộn lèo” dây lèo thuyền buồm bị ngược gió phải lộn ngược trở lại, “trái gió” ngược gió Tuy nhiên lái lại, thơ lại tạo nên lớp nghĩa khác, hoàn toàn không liên quan đến nghĩa gốc tự thân mục đích xoáy sâu vào nhân vật nhắc đến Luận nghĩa thứ hai, hoạt động thuộc 13 ông sư, bà vãi, tiểu… vào đây? Tài tình chỗ từ ngữ mang nghĩa không sống sượng, chớt nhã, khiêu dục… Ở góc độ khác, tài tình Hồ Xuân Hương thể việc dùng từ thuộc trường từ vựng thơ Bài thơ Khóc Tổng Cóc, 28 chữ có từ vật thuộc loài cóc “Chẫu chàng”, “nhái bén”, “nòng nọc”, “chẫu chuộc”, “cóc” Bài “Bỡn bà lang khóc chồng” có nhiều từ vị thuốc “cam thảo”, “quế chi”, “trần bì”, “thạch nhũ”, “quy thân”, “liên nhục”…cả từ hành động bào chế thuốc, dụng cụ làm thuốc “sao”, “tẩm”, “dao cầu”… Bên cạnh đó, việc vận dụng thủ pháp ẩn dụ làm tăng thêm tính biểu tượng, gợi hình cho tranh với đường nét mà Xuân Hương phác thảo nên Mượn hình ảnh ốc nhồi hay mít để đả phá đám quân tử đạo mạo, cao thực chất chuyên đùa bỡn tình cảm cô gái nhà lành thông qua đó, nữ thi sĩ thể ước mơ hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn “Bánh trôi nước” mà nữ sĩ nhắc đến vẻ đẹp hình thể, tâm hồn người gái thân phận bé nhỏ, đời có phũ phàng, xã hội có vùi giập “em giữ lòng son “Tấm lòng son " biểu phẩm chất cao đẹp người phụ nữ xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc mà không đủ sức làm lay chuyển KẾT LUẬN Hồ Xuân Hương thổi luồng gió vào văn học viết Việt Nam Có thể nói, bà người phụ nữ không tài hoa mà gan dạ, dám nói cần nói nói thẳng, nói thật không vòng vo, né tránh Ngôn ngữ Xuân Hương sử dụng giản dị, dễ nhớ, dễ đọc, phù hợp với tầng lớp bình dân Không thế, ngòi bút xuất sắc mình, nữ sĩ khéo léo đưa nghệ thuật trào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc thông qua đó, xã hội với đầy rẫy bất công mà nạn nhân người 14 phụ nữ tái lên Bản thân Hồ Xuân Hương người phụ nữ, chịu kiếp làm lẽ nên thấm thía nỗi đau Chính thế, thơ văn Hồ Xuân Hương mang nội dung chân thực không thế, tính nghệ thuật đậm đà Và nghệ thuật trào phúng bà vô độc đáo khác biệt 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO Bắc Giang, Phiếm Luận thơ Hồ Xuân Hương Bùi Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười thơ Nôm truyền tụng thuộc tượng Hồ Xuân Hương Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục thơ Hồ Xuân Hương Đỗ Lai Thúy, Lý giải dâm tục thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín ngưỡng phồn thực Kiều Văn, Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận “Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên kỷ” Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục thơ Nôm Hồ Xuân Hương góc độ so sánh.” 10 Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm 11 Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg – Thơ đời, 2010 [...]... Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với cái nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên thế kỷ” Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc độ so sánh.” 10 Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm 11 Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg... cũng rất đậm đà Và nghệ thuật trào phúng của bà cũng vô cùng độc đáo và khác biệt 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 2 Bắc Giang, Phiếm Luận về thơ Hồ Xuân Hương Bùi Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười trong thơ Nôm truyền tụng thuộc hiện tượng Hồ Xuân Hương 3 Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục trong thơ Hồ Xuân Hương 4 Đỗ Lai Thúy, Lý giải cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín ngưỡng phồn thực 5 6 7 8 9... léo đưa nghệ thuật trào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc và cũng thông qua đó, xã hội với đầy rẫy những bất công mà nạn nhân chính là những người 14 phụ nữ cũng được tái hiện lên Bản thân Hồ Xuân Hương cũng là người phụ nữ, cũng chịu kiếp làm lẽ nên càng thấm thía nỗi đau Chính vì thế, thơ văn Hồ Xuân Hương mang nội dung chân thực và không chỉ thế, tính nghệ thuật cũng... thấy trong văn học dân gian Nó tồn tại trong những câu ca dao, tục ngữ câu hát của người xưa “Con cá đối nằm trong cối đá Con mèo đuôi cụt nó năm mục đuôi kèo” Hay Cam sành nhỏ lá thanh ương Ngọt mật thanh đường nhắm lớ bớ anh Thanh ương là tuổi mong chờ Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà Ca dao Qua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành một biện pháp nghệ thuật rất đặc trưng trong thơ. .. cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu là Hồ Xuân Hương được sáng tác ra nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tình cảm, được hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời còn là phương tiện để đả kích tầng lớp thống trị mục nát Hay trong bài thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương đã khéo léo đến mức khiến chúng ta có thể hình dung rõ ràng từ việc dựng cây đu cho đến... Một bài thơ với nhiều lớp nghĩa sẽ kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với sự đa tầng nhiều lớp nghĩa, chúng ta sẽ càng thấy rõ tài năng của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn này Tính “dục” trong thơ Hồ Xuân Hương còn được dùng để đả kích những tên hiền nhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng Mang danh là thế, nhưng thực chất, khi nhìn thấy vẻ đẹp, thân thể của “thiếu nữ ngủ ngày” “Đôi gò Bồng Đảo hương. .. cuối bài thơ, người ta vẫn không biết chàng quân tử ấy quyết định “đi” hay “ở” dù cho cái bản năng rất đời thường của đàn ông ấy nó cứ ngồn ngộn không thể kìm chế được Ta bật cười trước cái sự băn khoăn của anh ta, càng nhìn càng muốn ở lại, mà lại không thể, muốn đi mà lại chẳng đi được Ôi oái oăm thay! 4 Biện pháp tu từ Một trong những biện pháp tu từ được sử dụng rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân Hương. . .trong buồng the gác kín mà thông qua các biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửi gắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên Trong thời đại Nho giáo phong kiến khắt khe, những cô gái như Hồ Xuân Hương không được tự do sống thật với tình yêu, hôn nhân, của chính mình mà ngược lại còn phải chịu sự cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục”... chất cao đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc bấy giờ mà không ai có thể đủ sức làm lay chuyển nó KẾT LUẬN Hồ Xuân Hương đã thổi một luồng gió mới vào nền văn học viết Việt Nam Có thể nói, bà là một người phụ nữ không chỉ tài hoa mà còn rất gan dạ, dám nói những gì cần nói và nói thẳng, nói thật chứ không vòng vo, né tránh Ngôn ngữ Xuân Hương sử dụng rất giản dị, dễ... thuật rất đặc trưng trong thơ bà Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm trong từng từ từng ngữ của bà đều mang nhiều tầng nghĩa hết sức phong phú, để mà khi người ta chiêm nghiệm ra, ngoài tiếng cười phá lên đầy thú vị và sảng khoái, người ta còn cảm thấy tâm đắc và khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đà chất nghệ thuật trong tác phẩm của bà “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Làm chi một chút ... phẩm thơ Hồ Xuân Hương Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp liệt kê Phương pháp so sánh… NỘI DUNG CHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ... chứa phản kháng mạnh mẽ, liệt không trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương đậm đà chất trữ tình đặc sắc CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khắc họa hình tượng nhân vật,... Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận Hồ Xuân Hương – Ghẹo - Xem thêm -Xem thêm NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, , CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, Cách sử dụng từ ngữ, Biện pháp tu từ
thơ trào phúng hồ xuân hương